GIÁO HỘI CÔNG GIÁO LA MÃ TẠI VN

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO LA MÃ TẠI VN

Tài liệu tham khảo - Mar 24/03/2014

Trang-tông nhà Lê (1533) có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở Việt Nam. Chiếu chỉ này đã đề cập đến một người Tây phương tên I-Hi-Khu đã rao giảng đạo Thiên Chúa ở huyện Giao Thủy và Nam Chân tỉnh Nam Sơn (nay là Nam Định)

I. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo La Mã tại Việt Nam

Không ai biết rõ đạo Công Giáo (còn được gọi là đạo Gia-tô, đạo Thiên Chúa) đã đến Việt Nam như thế nào. Theo truyền thuyết thì vào thế kỷ thứ hai, thứ ba… nhiều người Tây phương đến viếng Việt Nam trong đó có các thương gia, các linh mục Thiên Chúa Giáo. Những hoạt động của các nhà truyền giáo này không được ghi chép và không có bằng chứng nào cho biết là đã có người theo đạo lúc ấy mãi cho đến thế kỷ thứ 16.

Theo lịch sử chánh thức của triều đình Việt Nam (Khâm Định Việt Sử) thì từ năm Nguyên-hòa nguyên niên đời vua Trang-tông nhà Lê (1533) có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở Việt Nam. Chiếu chỉ này đã đề cập đến một người Tây phương tên I-Hi-Khu đã rao giảng đạo Thiên Chúa ở huyện Giao Thủy và Nam Chân tỉnh Nam Sơn (nay là Nam Định).

Đây là một giai đoạn xáo trộn về chính trị với sự phân tranh lãnh thổ: Nhà Mạc ở miền bắc và Nhà Lê ở miền nam (1527-1592); đất nước được thống nhất trên danh nghĩa dưới Triều Lê nhưng trên thực tế đã chia ra làm Đường Ngoài (miền bắc) thuộc chúa Trịnh và Đường Trong (miền nam) thuộc chúa Nguyễn (1592-1788).

Sử liệu không nói rõ là I-Hi-Khu đã bị trục xuất ngay lúc đó hay vẫn còn ở lại và tiếp tục chức vụ truyền giáo. Vào năm 1583, một phái đoàn gồm 8 linh mục dưới sự hướng dẫn của Cha Diego d'Oropesa đã đến viếng Việt Nam theo lời mời của vua Mạc Mậu Hợp. Phái đoàn đã đi từ Manila đến Quảng Yên và dùng đường thủy để đến thủ đô Thăng Long (Hà Nội). Dọc đường, tàu của họ đã bị một trận cuồng phong làm lạc hướng. Linh mục Bartholomeo Ruiz, một thành viên của phái đoàn trên trở lại Việt Nam năm sau và được quốc vương tiếp đón nồng hậu. Ông được nhà vua cho phép ở lại để truyền giáo.

Cha Ruiz và một số các linh mục Công Giáo, đa số là người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đã đến Việt Nam trong thời gian này. Họ đã hoạt động tích cực và đem những nhân vật cao cấp của chính quyền trong đó có Công chúa Regent Mai Hoa trở lại đạo. Dầu vậy, ảnh hưởng của họ không được sâu rộng lắm trong quần chúng Việt Nam. Nguyễn Hữu Trọng, trong luận án tiến sĩ của ông dưới tựa đề "Nguồn gốc của hàng giáo phẩm Việt Nam" (Les Origines Du Clergé Vietnamien), đã viết như sau: "Nếu chúng ta xem xét những thành quả của việc truyền giáo trong giai đoạn tiên khởi này, chúng ta phải nhìn nhận rằng nó đã thành tựu một cách khiêm nhường. Có vài người chịu phép rửa tội (báp-têm), chưa đủ để tạo dựng một cộng đồng Cơ Đốc có thể gây dựng một Hội thánh tương lai".

Mãi cho đến năm 1624, khi một giáo sĩ người Pháp, một học giả tài ba lỗi lạc là Cha Đắc Lộ hay Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, việc truyền giáo mới chuyển qua một khúc quanh quan trọng. Ông hoạt động cả miền bắc lẫn miền nam (Đường Ngoài và Đường Trong) trong 22 năm. Ông thành thạo ngôn ngữ, lịch sử và địa lý Việt Nam, nhất là đã hoàn tất việc chuyển đổi chữ viết Việt ngữ bằng cách dùng mẫu tự La-tinh. Với vài thay đổi và tu chỉnh sau này, Việt ngữ do ông soạn thảo đã thay thế chữ nho để trở thành quốc ngữ vào cuối thập niên 1910.

Linh mục Đắc Lộ trở về Ba-lê vào năm 1649. Ông thành lập Hội Thừa Sai (Societé des Missions Etrangères) để khuyến khích các nhà truyền giáo người Pháp đến vùng Viễn Đông. Vì thế, các giáo sĩ người Pháp càng ngày càng gia tăng và đã trở thành một thành phần nòng cốt của các giáo sĩ Công Giáo ở Việt Nam. Theo Đào Duy Anh, tác giả của quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, vào năm 1680, khoảng 30 năm sau khi Hội Truyền Giáo Hải Ngoại được thành lập, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cho rằng có đến 600.000 giáo dân ở miền nam (Đường Trong) và 200.000 ở miền bắc (Đường Ngoài). Các con số này không được xác nhận và dường như hơi cao hơn trên thực tế, vì sau hơn một thế kỷ, con số giáo dân trong toàn quốc sau nhiều lần tăng gia và phát triển đã không vượt quá 320.000 (theo Linh mục Phan Phát Huồn, một sử gia Công Giáo).

Hoạt động truyền giáo của Công Giáo vào cuối thế kỷ thứ 17 đến thời đại vua Gia Long năm 1802 thường gặp khó khăn. Sự thăng trầm này thường bắt đầu và chấm dứt với việc lên ngôi hay băng hà của các vị vua có thiện cảm hay ác cảm với tôn giáo nầy. Trong nhiều trường hợp, việc này tùy thuộc vào sự thay đổi quan điểm của các vị vua hoài nghi. Điển hình là trong đời chúa Trịnh Tráng, các linh mục Bồ Đào Nha được phép theo ông trong chuyến chinh phục miền nam để giảng đạo. Họ được phép mở các nhà thờ ở Hà Nội và các thành phố miền bắc khác. Nhưng khi ông biết rằng những đặc ân ông dành cho các giáo sĩ Bồ ĐàoNha đã không mang lại lợi lộc trong việc trao đổi kinh tế với nước này, Trịnh Tráng quyết định trục xuất các nhà truyền giáo. Ở miền nam, Cha Đắc Lộ là giáo sĩ đầu tiên tiếp kiến chúa Công Thương Vương, được người chấp nhận lễ vật và được phép kiều ngụ trong xứ. Tuy vậy chúa Công Thương Vương đã ra lệnh hành quyết 3 Thánh tử đạo là An-rê, Inhaxo, và Vinh Sơn cùng nhiều giáo dân khác (1644-1645).

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, ba anh em Nhà Tây Sơn (1788-1802), đã thống nhất sơn hà, dẹp bỏ chế độ cai trị của các Lãnh chúa ở miền bắc lẫn miền nam và chấm dứt chế độ nhà Lê. Mặc dù các vị vua nhà Tây Sơn không chống đối đạo Công Giáo, đa số các nhà truyền giáo đã phải rời bỏ Việt Nam vì chiến tranh. Trong thời gian này, hoạt động của các nhà thờ Công Giáo không được ghi chép đầy đủ. Học giả Trần Trọng Kim đã viết trong quyển Việt Nam Sử Lược rằng "trong thời Tây Sơn, vì đất nước bất yên, triều đình chú tâm vào việc chiến tranh và Công Giáo không bị cấm".

Chánh sách dễ dãi với Công Giáo này đã dần dần thay đổi trong những năm cuối. Lúc đầu quân lính Tây Sơn không có thiện cảm với các tôn giáo, họ không giúp đỡ các chùa, đền hay nhà thờ và Công Giáo cũng được coi như các đạo khác. Khi Giám mục Bá Đa Lộc thành Adran công khai ủng hộ Hoàng tử Nguyễn Ánh, đối thủ chánh của nhà Tây Sơn, chính quyền trong nam dưới thời Nguyễn Lữ, em của Hoàng Đế Quang Trung, bắt đầu bắt bớ Công Giáo: nhà thờ bị tàn phá, các giáo chức người Việt phải lẩn trốn trong rừng.

Trong 9 năm dưới thời Tây Sơn, số giáo dân giảm đi từ 100.000 xuống còn 60.000 ở miền nam. Tuy nhiên, nhiều bằng cớ cho biết sự sút giảm này là do ảnh hưởng tàn phá của chiến tranh đã làm cho dân số giảm xuống hơn là sự đàn áp của chánh quyền Tây Sơn.

Ở miền bắc và miền trung, Công Giáo được chấp nhận, không bị nhà Tây Sơn để ý trong lúc đầu cho đến khi Giám mục Labartette ở Thuận Hóa (Huế) nhận được mật thư của Hoàng tử Nguyễn Ánh sau khi ông đã chinh phục được miền nam. Vì lý do này mà 31 tín đồ Công Giáo bị giết trong đó có Linh mục Nguyễn Văn Triệu, nhiều người khác phải lẩn trốn. Phản ứng khắc nghiệt của nhà Tây Sơn không phải là do sự chống đối ngoại kiều hay đạo Công Giáo mà do sự ủng hộ của Giám mục Bá Đa Lộc và các hàng giáo phẩm đối với Nguyễn Ánh. Linh mục Phan Phát Huồn, tác giả của Việt Nam Giáo Sử, là quyển lịch sử đầy đủ nhất của đạo Công Giáo ở Việt Nam đã đồng ý với quan điểm rằng "nếu Giám mục Bá Đa Lộc không giúp đỡ Nguyễn Ánh chinh phục đất nước, triều đình Tây Sơn sẽ không sát hại tín đồ Công Giáo".

Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã thành công trong việc diệt trừ được nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy danh hiệu là Gia Long. Trong thời gian 18 năm đời vua Gia Long, Công Giáo được yên ổn và phát triển dù rằng nhà vua không theo đạo. Ông cũng không ban đặc ân nào cho Giáo hội. Ông thường biểu lộ lòng biết ơn đối với các nhà truyền giáo nhất là Giám mục Bá Đa Lộc, người đã hết lòng giúp đỡ nhà vua (dù rằng sau này Giám mục Bá Đa Lộc bị mất chức) cho đến khi ông qua đời. Trong đời vua Gia Long, Giáo Hội Công Giáo có 320.000 giáo dân, 119 Linh mục Việt Nam, 15 nhà truyền giáo ngoại quốc và 3 Giám mục. Điều đáng chú ý là 80 % các Linh mục và Giáo chức Việt Nam đều ở miền Bắc.

Sau khi vua Gia Long băng hà, Giáo hội Công Giáo chỉ được một thời gian yên ổn ngắn ngủi, từ năm 1820-1833, sau đó đã trải qua một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức (1833-1883). Vua Minh Mạng đã ra chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo trong toàn lãnh thổ vào ngày 6 tháng giêng năm 1833. Lịnh cấm chỉ này được các vua Thiệu Trị và Tự Đức theo đuổi: các nhà truyền giáo vào lãnh thổ bất hợp pháp để rao giảng đạo sẽ bị xử tử; các linh mục Việt Nam không bỏ đạo sẽ bị khắc chữ vào mặt và lưu đày; giáo dân bị cấm không được theo đạo, tuy nhiên họ không bị ám hại. Rất nhiều giáo sĩ ngoại quốc, nhiều giáo chức Việt Nam bị giết vì chính quyền địa phương tố cáo họ là những người nằm vùng, chính quyền trung ương càng tình nghi họ nhiều hơn, lại thêm các nhóm chống đối (chống Pháp) địa phương cũng nghi kỵ họ. Mãi đến khi hòa ước năm 1862 và 1874 ra đời, Việt Nam bị áp lực phải thâu hồi các lệnh cấm trên. Một sử gia Việt Nam, ông Phan Thanh Khôi đã viết: "Các vị vua Việt Nam đã chống đối Công Giáo không phải vì họ có chủ trương thái quá nhưng vì họ muốn bảo vệ sự thuần nhất của dân tộc về chính trị cũng như về đạo đức. Họ cho rằng người Công Giáo không thờ cúng ông bà là một đe dọa cho sự thuần nhất của quốc gia".

Có ít nhất 3 lý do khiến các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức có chánh sách khắt khe với Công Giáo.

1. Nguyên nhân thứ nhất là chính trị, có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất. Vua Minh Mạng, không phải là trưởng nam của vua Gia Long (Hoàng tử Cảnh là người kế vị đã mất tại Gia Định sau chuyến thăm viếng Ba-lê với Giám mục Bá Đa Lộc) và sự chọn ông để nối nghiệp đã bị một vài triều thần và các nhân vật có thiện cảm với Công Giáo chống đối. Cho đến ngày nay, nhiều người Công Giáo vẫn cho là sự chọn lựa này không hợp pháp, và chỉ có con của Hoàng tử Cảnh mới có quyền kế vị vua Gia Long. Sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng tỏ sự bất mãn đối với những người đã chống đối ông. Vì vậy, việc cấm chỉ đạo Công Giáo đã không làm ai ngạc nhiên.

2. Nguyên nhân thứ nhì là chủ trương của nhà vua muốn theo đạo truyền thống dân tộc như Khổng giáo, đạo thờ ông bà và như vậy ông chống đối các đạo ngoại lai mà ông cho là "tà giáo".

3. Lý do thứ ba cũng là lý do chính trị: vì chính sách bành trướng của các đế quốc thời đó nhất là nước Anh đã đô hộ Ấn độ và Miến điện trước đó mấy chục năm, và nước Pháp muốn bành trướng sự hiện diện ở Á Châu sau khi bị mất Ấn Độ vào tay Anh quốc. Các nhà truyền giáo bị coi là gián điệp và tín đồ Công Giáo bị coi như những người nằm vùng, họ không ngần ngại phản bội đất nước cho sự tự do tín ngưỡng.

Trong hòa ước 1862, Hoàng đế Việt Nam bị bắt buộc phải thừa nhận sự đô hộ của nước Pháp ở miền nam như được nêu lên ở điều thứ nhất: "Nước Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I-pha-nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do theo đạo".

Sự tự do tín ngưỡng này không được dành cho dân miền trung và miền bắc. Họ vẫn còn bị cấm bởi chính quyền. Các nhóm ái quốc điển hình là nhóm Văn Thân đã tuyên bố rằng "Tín đồ Công Giáo đã bán nước cho thực dân Pháp. Một khi những kẻ nằm vùng này bị loại trừ, người Pháp sẽ không còn hậu thuẩn nữa ắt sẽ bị tiêu diệt". Nỗ lực của họ không ngưng cho tới năm 1884 khi hòa ước Patenotre đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, và sự tự do tín ngưỡng cho đạo Công Giáo được bảo đảm dưới hòa ước Giáp Tuất (1874) được tái xác nhận và thực thi. Giáo hội Công Giáo không bao giờ mất "sự tự do giảng đạo" và tiếp tục bành trướng trong thời gian Pháp thuộc. Vào năm 1932, Việt Nam có 13 giáo phận và tất cả đều do các giám mục ngoại quốc đảm nhiệm. Giám mục đầu tiên của Việt Nam là đức cha Nguyễn Bá Tòng được nhậm thánh chức vào năm 1933. Đây là một biến cố lịch sử cho hàng giáo phẩm Việt Nam vì trong gần bốn thế kỷ, những nhà truyền giáo Âu châu không cố gắng đào tạo những người lãnh đạo cũng như những linh mục trong nước theo tinh thần của các thánh đồ vào thế kỷ thứ nhất.

Một biến cố khác, 27 năm sau, vào năm 1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đề cử 3 Tổng Giám mục giáo khu (archbishoprics) và các hàng giáo phẩm đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Đó là giáo khu Hà Nội với 8 giáo phận (diocese) do Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê, giáo khu Huế với 3 giáo phận (dioceses) do Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, giáo khu Sài-gòn với 5 giáo phận do Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình lảnh đạo. Trong số 16 Giám mục được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm cho các giáo phận trên, có 14 Giám mục Việt Nam.

Trên thực tế, Công Giáo là tôn giáo có tổ chức, hệ thống nhất ở Việt Nam ngày nay. Với 1.454.842 giáo dân ở miền nam và 833.468 giáo dân ở miền bắc, Công Giáo là một cộng đồng lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong xã hội Việt Nam. Ngoài công việc truyền giảng và huấn luyện các giới lãnh đạo trong nước, Giáo hội Công Giáo với 24 giáo phận (orders) có được một hệ thống rộng lớn và hữu hiệu chuyên lo về vấn đề giáo dục và xã hội. Điều này đã làm cho hằng ngàn người trở lại đạo mỗi năm và đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong giới trí thức. (Trích dịch từ luận án tiến sĩ của Mục sư Lê Hoàng Phu, 1972).

 


Đạo Thiên Chúa dưới mắt sử gia Trần Trọng Kim

(Trích Việt Nam Sử Lược[1])

Nguyên khi xưa toàn xứ Âu-la-ba (Âu Châu) không có nhất định một tông giáo nào cả. Mỗi dân tộc thờ một vị thần riêng của mình. Thường hay lấy cái lực hoạt động của tạo hóa mà tưởng tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như dân tộc Hi-lạp (Grec) và dân tộc La-mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân tộc Do-thái (Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được độc lập, chỉ thờ một vị thần gọi là Jéhovah ở thành Gia-lỗ-tán-lĩnh (Jerusalem). Dân ấy tin rằng thần Jéhovah sinh hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà thôi. Đến đời dân La-mã đã kiêm tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc A-phi-lị-gia (Phi Châu) và đất tây nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc La-mã, mà đạo Do-thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái mà lập ra đạo mới[2] dạy người lấy sự yêu mến và tôn kính Thiên Chúa làm gốc, lấy bụng từ bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi truyền bá các nơi. Ông Saint Pierre thì sáng lập giáo đường ở kinh thành La-mã, ông Saint Paul thì đi truyền đạo ở khắp trong nước.

Lúc đầu đạo Thiên Chúa bị nhiều phen vua La-mã nghiêm cấm, dùng cực hình mà giết các giáo sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dầu nguy nan thế nào mặc lòng, các môn đồ cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn phương. Mãi đến đầu đệ tứ thế kỷ (313) vua La-mã là Constantin mới cho giảng đạo Thiên chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên Chúa một ngày một thịnh, lập giáo hoàng để thống nhất việc giáo, đặt giám mục để coi việc giáo ở các nơi, lại sai giáo sĩ đi truyền đạo khắp trong thiên hạ: hễ ở đâu có người là có giáo sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo Thiên chúa cả.

Ở bên Á đông ta thi từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh giáo[3] tức là một phái Gia-tô giáo đã sang Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo Cảnh giáo mất dần đi. Mãi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới thật có giáo sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu.

Ở nước Nam ta từ khi đã có người Âu-la-ba sang buôn bán, thì tất là có giáo sĩ sang dạy đạo. Cứ theo sách Khâm Định Việt Sử, thì năm Nguyên Hòa nguyên niên đời vua Trang tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, thuộc huyện Nam Chân (tức là Nam Trực) và ở làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy.

Sách Nam sử của Trương vĩnh Ký chép rằng năm bính thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người giáo sĩ Tây-ban-nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo trong Nam trước hết cả. Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ý quấy nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi.

Đến năm ất mão (1615) đời chúa Sãi, giáo sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm giáp tí (1624) có giáo sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú xuân và lập ra các giáo đường. Năm bính dần (1626) đời vua Lê Thần-tông, giáo sĩ Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi. Được ít lâu ông Jean Rhodes (Alexandre de Rhodes) ở trong Nam ra Bắc vào yết kiến chúa Trịnh và đem dâng cái đồng hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được giảng đạo tại kinh đô.

Từ đó về sau các giáo sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo đạo cũng nhiều. Nhưng vì nước ta tự xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế tự thần thánh làm phải, mà lệ nước thì lấy sự cúng tế làm một việc rất quan trọng. Đột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm hủy hoại cả cái phong hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không theo chỉ dụ ấy.

Cứ theo trong sử thì năm tân vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn-phúc Lan cấm không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước.

Năm quí mão (1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo sĩ và cấm không cho người mình theo đạo Gia-tô.

Năm giáp thìn (1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà Nẵng.

Năm bính tí (1696) đời vua Lê Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước.

Năm nhâm thìn (1712) đời vua Lê Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia-tô phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa-lan đạo" (Hoa-lan tức là Hòa-lan (Hollande). Người Hòa-lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Hòa-lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây thì thường cứ gọi là Hòa-lan).

Năm giáp tuất (1754) đời Cảnh-hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm cấm một cách rất ngặt, không cho người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo trưởng và đạo đồ.

Từ đó về sau việc cấm đạo ngày một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng không lấy luật nước làm sợ, cứ cố sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần dần người trong nước phân ra bên lương bên giáo, ghen ghét nhau hơn người cừu địch. Vua quan thì thấy dùng phép thường không cấm được, mới dùng đến cực hình để mà trừng trị, giết hại bao nhiêu người vô tội.

Tóm lại mà xét, thì giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà thôi, thì chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có lẽ gì mà ngăn cấm; nhưng bởi vì khi đã quan hệ với việc sùng tín, thì dù hay dở thế nào mặc lòng, người ta ai cũng cho sự sùng tín của mình là phải hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế lực mà đè nén nhau. Cũng vì thế cho nên nước ta không chịu suy xét lẽ phải trái cho kỹ càng, làm lắm sự tàn ác để đến nỗi mất cả sự hòa hiếu với các nước Tây dương và gây nên cái mối biến loạn cho nước nhà vậy.

 

Sự cấm đạo đời vua Minh Mạng
Từ khi vua Thánh-tổ (Minh Mạng) lên ngôi, ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà-nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh-tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo".

Ngài lại sai tìm bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý là không phải vì việc dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chỗ hương thôn.

Lúc bấy giờ không phải là một mình vua Thánh-tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có ra dụ lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo,và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.

Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chổ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia-định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.

Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra để khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bây giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hằng mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh-tổ thấy cấm thế nào cũng không được những người đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang Pháp để điều đình với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam ta sang đến nơi, thì hội Ngoại quốc truyền đạo xin Pháp hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp – theo sách Histoire de la Cochinchine Francaise của ông Cultru -. Sứ thần ta phải trở về không; khi về đến Huế thì vua Thánh-tổ đã mất rồi.

 Việc giao thiệp với nước Pháp đời vua Thiệu Trị
Từ khi vua Hiến-tổ (Thiệu Trị) lên trị vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà-nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.

Qua năm ất tị (1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bây giờ có người quản tàu Mỹ-lợi-kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alcmène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.

Năm đinh vị (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.

Lúc hai bên còn đang thương nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng gần tàu của Pháp, và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản trắc gì chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

Vua Hiến-tổ thấy sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.

Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà Nẵng xong được mấy tháng, thì vua Hiến-tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh vị (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu hiệu là Hiến-tổ Chương-hoàng-đế.

 

Việc cấm đạo đời vua Tự Đức
Việc cấm đạo thì từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực-tông mới lên ngôi, đã có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, thì phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v. v…

Đến năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ tư, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.

Sức đã không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước I-pha-nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.

Hoà ước năm Nhâm Tuất (1862)

Đến hôm 9 tháng 5 thì thiếu tướng Bonard và sứ thần nước Nam ta là ông Phan thanh Giản và ông Lâm duy Tiếp ký tờ hòa ước. Tờ hòa ước ấy có 12 khoản, khoản đầu tiên có liên quan đến tôn giáo:

1. Nước Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I-pha-nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do theo đạo.

 Hòa ước năm Giáp Tuất (1874)

Ngày 27 tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải quân thiếu tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường ký tờ hòa ước cả thảy 22 khoản, khoản IX lập lại việc giảng đạo.

Khoản IX. Vua nước Nam phải để cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, và để cho dân trong nước được tự do theo đạo.