đời sống hôn nhân Công Giáo nói riêng rất đa dạng: Từ các khó khăn về kinh tế, cho đến sự khác biệt về tính tình, văn hóa, quan điểm sống
Các vấn đề nan giải, các vướng mắc và các bế tắc trong đời sống hôn nhân nói chung và trong đời sống hôn nhân Công Giáo nói riêng rất đa dạng: Từ các khó khăn về kinh tế, cho đến sự khác biệt về tính tình, văn hóa, quan điểm sống, tôn giáo, xã hội, khuynh hướng chính trị.
Trên thực tế xã hội ngày nay, dù ở Âu-Mỹ hay ở Á-Phi, đặc biệt các gia đình đông con thường rơi vào tình trạng thiếu thốn và nghèo đói về vật chất. Đây là một thực tại cụ thể thu hút nhiều nhất sự quan tâm của toàn xã hội, kể cả các xã hội tại các nước Âu-Mỹ giàu có. Nhưng chúng ta cũng không được phép bỏ qua một tình trạng nghèo nàn và thiếu thốn sâu rộng khác đã luôn luôn đóng vai trò không nhỏ, nếu không muốn nói là đóng vai trò chủ chốt, trong cuộc sống an vui hạnh phúc hay rời rạc và bất hạnh cho các gia đình: Vấn đề tâm linh tín ngưỡng, hay nói rõ hơn, vấn đề sống đức tin Công Giáo! Nhiều bậc cha mẹ đã không thành công trong việc gieo vãi đức tin Công Giáo và làm cho nó bén rễ sâu trong tâm hồn con cái của họ, có lẽ do phần lớn những bậc cha mẹ này hoặc vốn liếng hiểu biết về các giáo lý quá ít ỏi nông cạn hoặc không sống và không thực hành các giáo lý một cách cẩn thận. Vì người ta không thể cho người khác điều mình không có. Đó thường là nguyên nhân chính khiến con cái họ có thái độ thờ ơ lạnh nhạt đối với đời sống đức tin. Và một điều đáng buồn khác cũng không phải là nhỏ, khi một trong hai vợ chồng bỏ rơi người còn lại một mình trong cuộc sống đức tin.(1)
Nhưng sự khủng hoảng gây đau khổ nhiều nhất cho mọi thành phần của gia đình, đó là khi các đôi vợ chồng không thể dẹp bỏ được sự tự ái cá nhân và tìm làm hòa với nhau, để cứu vãn cuộc sống hạnh phúc gia đình, nhưng sống chia rẽ nhau, sống ly thân, hay tồi tệ hơn nữa, ly hôn, tức họ tự tiện xóa bỏ giao ước hôn nhân, mà họ đã long trọng thề hứa với nhau trước bàn thờ Chúa, và qua đó, họ xóa bỏ gia đình và hạnh phúc của nó. Vâng, hiện tượng ly hôn là nguyên nhân chủ chốt gây ra bao bất hạnh cho cả gia đình, cho con cái và cho chính đôi vợ chồng. Vì thế, đây là một chủ đề hết sức quan trọng(2) mà chúng ta sẽ tringh bày trong những dòng tiếp sau đây.
Tình trạng ly hôn và những phức tạp kèm theo
Một điều quá hiển nhiên không ai phủ nhận được, đó là con số các đôi vợ chồng ly hôn hay ly dị trong mấy thập niên vừa qua đã tăng nhanh một cách đáng sợ: Ở các các nước bắc Âu vào khoảng trên 60%, còn ở tây Âu vào khoảng từ 40 đến 50%. Sự khủng hoảng gia đình này đã ảnh hưởng trực tiếp không những đến những người liên hệ, đến xã hội, mà còn đến cả Giáo Hội nữa. Chắc hẳn tất cả chúng ta cũng đã tận mắt chứng kiến cảnh đổ vỡ của các gia đình, những phức tạp và những bất hạnh kèm theo của những người sống ly thân, ly hôn và rồi lại tiếp tục lập gia đình mới với người khác. Đó quả một sự mất mát, bất an và đau khổ to lớn nhất cho toàn thể gia đình nói chung và nhất là cho các con cái nói riêng, những thành phần mà người ta không được phép quên sót. Và dĩ nhiên, trong những trường hợp phức tạp và thương tâm ấy, việc thực hành, gìn giữ và thăng tiến đức tin Kitô giáo của mình một cách đầy hân hoan và xác tín quả là một thách đố không nhỏ, nếu không muốn nói là hầu như bất khả.
Nhưng đâu là lối thoát khả dĩ? Hay đâu là những giải quyết mà người ta có thể khám phá ra được dưới ánh sáng của tình yêu Đức Kitô?
Trong vấn nạn này, các quan điểm và các ý kiến trong Giáo Hội phần lớn không đồng đều và rất khác biệt nhau. Một ví dụ điển hình: Nhân dịp Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI thăm mục vụ Đức Quốc vào tháng 9 năm 2011, một Tổng Giáo phận tại đây đã cho xuất bản một số tập tài liệu về các vấn đề phụng vụ và đời sống thiêng liêng. Một trong số các tập tài liệu ấy, người ta đọc thấy: „Hai vấn nạn được đặt ra cho ĐTC Bênêđictô XVI,“(3) Vấn nạn đầu tiên trong hai vấn nạn được đặt ra là: „Cho phép những người sau khi ly hôn và lại tái kết hôn được rước lễ.“ Tác giả của hai vấn nạn đó là một vị giáo sư thần học đã nghỉ hưu. Ông đã trình bày vấn đề trong hơn bảy trang giấy. Cuối bài viết, ông đã dựa theo nguyện vọng của nhiều người khác cùng đồng quan điểm, xin Đức Thánh Cha xem xét lại nguyện vọng của các Đức Giám Mục Đức thuộc miền thượng lưu sông Rhein, tức miền tây nam Đức, gồm các Tổng Giáo Phận và Giáo Phận: Freiburg, Rottenburg-Stuttgart và Mainz, là những vị vào năm 1993 đã công bố một Thư Mục Vụ chung cho cả ba giáo Phận, trong đó các vị đã bày tỏ ý kiến muốn cho phép những người đã ly hôn và lại đã tái hôn được phép rước lễ với một số điều kiện nhất định, ví dụ: những người vợ hay chồng vô tội trong vấn đề ly dị, tức những người vợ hay chồng bị chồng hay vợ mình bỏ rơi một cách bất công. Nhưng một năm sau đó, trong một Thư Chung gửi tất cả các Giám Mục Công Giáo trên khắp thế giới, Thánh bộ Đức Tin đã bác bỏ ý kiến ấy.(4)
Ví dụ chúng ta vừa dẫn chứng cho thấy rằng, trên nguyên tắc chương trình Mục Vụ cho những người ly hôn trong các vùng lãnh thổ nói tiếng Đức vẫn đang trên đường tìm kiếm một lối thoát hay một đường hướng đi khả dĩ. Còn trên thực tế, rất nhiều vị Linh Mục, mà người ta thường gọi là các Linh Mục „cấp tiến“ hay „cởi mở“, đã tỏ thái độ khoan dung đối với những người tín hữu ly hôn và đã tái kết hôn bằng cách âm thầm „làm ngơ“ để họ lên rước lễ, nếu không muốn nói là nhiều vị còn mời họ đến tham dự Bàn Tiệc Thánh như các tín hữu khác. Trong khi đó, các Linh Mục muốn tuân giữ nghiêm ngặt các chỉ thị và hướng dẫn của Tòa Thánh lại cảm thấy mình đang phải đối mặt với một tình huống mục vụ vô cùng phức tạp và „khó xử“ và phải mang một tâm trạng ray rứt: „bỏ thì thương, vương thì tội.“
Vấn đề mục vụ cho những người ly hôn và lại đã tái hôn tại một số quốc gia khác như tại Bỉ, Pháp, Áo hay Canada, v.v… cũng đã đưa ra những đường lối mới mẻ, tuy nhiên, vẫn không vượt quá xa khỏi giới hạn các chỉ dẫn của Giáo Hội.(5)
Giải quyết dưới ánh sáng tình yêu Đức Kitô, nhưng như thế nào?
Đây là một vấn đề mục vụ khó khăn, tế nhị và quan trọng của Giáo Hội, vì nó liên quan trực tiếp đến con người và hạnh phúc của họ: từng cá nhân, từng hôn nhân, từng gia đình và toàn xã hội. Do đó, vấn đề cần phải được giải quyết dưới ánh sáng của tình yêu Đức Kitô. Nhưng nếu người ta tìm cách giải quyết vấn đề ấy dưới ánh sáng tình yêu Đức Kitô, người ta không được phép loại bỏ chân lý của Người. Bởi vì, không thể gọi là tình yêu đích thực được, khi người ta không thể hiện tình yêu ấy trong chân lý. Ở đây câu nói của Đức Giêsu mang trọn vẹn ý nghĩa của nó: „Chân lý sẽ giải thoát các ngươi!“(Ga 8,32). Và thuộc về chân lý ấy là Sứ điệp Tin Mừng của Người về tính chất bất khả tháo cởi của Bí tích Hôn Nhân. Trong vấn đề này, khi Giáo Hội rao giảng và bảo vệ tính chất bất khả phân ly hay bất khả tháo cởi của Bí tích Hôn Nhân, Giáo Hội không rao giảng một giáo huấn riêng của mình, nhưng là một chân lý mặc khải về một thực tại mà Giáo Hội không có quyền thay đổi. Giáo Hội chỉ có quyền và có bổn phận rao giảng và bảo vệ mà thôi: Sự bất khả tháo cởi của Bí tích Hôn Nhân, vì „sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.“(Mt 19,6b) Đây là mệnh lệnh và nguyên tắc bất di dịch của Thiên Chúa.
Theo tinh thần Bí tích Hôn Nhân, những người sống bậc hôn nhân Công Giáo được kêu mời làm chứng cho sự trung tín vô điều kiện của Thiên Chúa đối với nhân loại trong chính sự chung thủy hôn nhân của mình. Qua Bí tích Hôn Nhân tình yêu vợ chồng mang một giá trị vô cùng thánh thiêng và cao cả, chứ không chỉ là một tình yêu thuần tuý nhân loại giữa một người nam và một người nữ mà thôi. Bởi vì, một khi tình yêu vợ chồng đã được thánh hóa bởi Bí tích Hôn Nhân, bởi ân sủng của Thiên Chúa, thì nó trở thành nhân chứng cụ thể của tình yêu Đức Kitô đối với nhân loại, Đấng đã vì yêu nhân loại và muốn cho nhân loại được hạnh phúc chân thật, nên tự hiến thân mình đến chịu chết trên thập giá.
Vì thế, cả khi những người vợ chồng sống ly thân hay ly hôn, thì sợi dây hôn nhân nối kết giữa họ vẫn tiếp tục tồn tại, vì sự nối kết hôn nhân ấy được đặt nền tảng trên hôn ước mà chính Thiên Chúa đã thiết lập và cũng đã đóng ấn niêm phong. Điều đó muốn khuyến khích tất cả những người, vì hoàn cảnh bất đắc dĩ nào đó, đang phải sống trong tình trạng ly thân hay ly hôn, cần phải giữ sự chung thủy với người bạn đời mà một lần mình đã long trọng thề hứa trước bàn thờ Chúa là dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống cũng sẽ giữ lòng chung thủy trọn đời, và từ chối một quan hệ mới có tính cách vợ chồng. Để thực hiện được điều đó, họ cần tới những sự nâng đỡ thiêng liêng và tinh thần của Giáo Hội, cũng như một sự thông cảm, cùng đồng hành và chia sẻ đầy nhân bản của gia đình và bạn bè.
Khi một hôn nhân bị đổ vỡ bao giờ cũng kéo theo những tổn thương sâu xa về mặt tinh thần như một hậu quả tất yếu. Vì thế, những người liên hệ cần phải được hướng dẫn với sự chia sẻ và thông cảm chân thành, trên từng bước tiến dần tới sự tha thứ cho nhau và có lẽ với thời gian cả từng bước tiến tới sự hòa giải với nhau nữa.
Tất cả những sáng kiến mới mẻ về vấn đề mục vụ cho những người ly hôn được thực hiện trong khuôn khổ các biện pháp và các hướng dẫn của Giáo Hội sẽ mang một giá trị đặc biệt, là giúp cho các người ấy xác tín vào các kế hoạch từ muôn thủa của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình, như Giáo Hội vẫn rao giảng. Hơn nữa, như vừa nói trên, tính chất bất khả phân ly của thể chế hôn nhân và gia đình Công Giáo là chân lý do Thiên Chúa mặc khải, chứ không phải do Giáo Hội thiếp lập ra, nên Giáo Hội không có quyền thêm bớt, sửa đổi hay loại bỏ. Nhờ thế, những người ly hôn sẽ nhận ra rằng, ơn gọi sống bậc hôn nhân của họ luôn vẫn là cùng với Giáo Hội làm nhân chứng cho kế hoạch bất di dịch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình giữa lòng xã hội thế tục.