TÀI LIỆU HỌC HỎI GIÁO LÝ DÀNH CHO LỄ SINH
51.Hội Thánh Công Giáo đã dùng các Thánh Vịnh làm gì ?
Hội Thánh Công Giáo đã dùng các Thánh Vịnh làm lời cầu nguyện chính thức của mình, không sửa đổi, bởi vì những lời ấy diễn tả thái độ mà mọi người phải có trước mặt Thiên Chúa. Nhờ Đức Kitô, các Thánh Vịnh còn mang thêm những ý nghĩa mới mẻ và phong phú.
Sách này thu góp nhiều châm ngôn nhằm dạy lẽ khôn ngoan, nghĩa là nghệ thuật ăn ở sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh ở đời.
Sách Giảng Viên còn được gọi là sách Qohelet (Cô-hê-lét). Tiếng này có nghĩa là “Người lên tiếng trong cộng đoàn”. Sách xuất hiện vào thế kỷ 5 trước công nguyên. Nó trình bày một suy tư khác thường về ý nghĩa của đời người: tất cả đều mong manh, hão huyền.
Tựa đề sách có nghĩa là ca khúc đẹp nhất. Nó là một sưu tập thơ tình yêu, ca ngợi phẩm giá tình yêu nhân loại, đã được dùng làm hình ảnh diễn tả quan hệ yêu thương mà nhờ giao ước, Thiên Chúa đã thiết lập giữa Ngài với dân Ngài, giữa Ngài và người tín hữu, giữa Đức Kitô và Hội Thánh.
Sách Khôn Ngoan ra đời muộn nhất trong các sách Cựu Ước, được soạn bằng tiếng Hy Lạp, vào thế kỷ 1 trước công nguyên.
Theo tác giả, sự khôn ngoan đích thật chỉ đến từ Thiên Chúa, ai được nó thì có hạnh phúc, nhưng muốn có, phải cầu nguyện. Ông nhắc đến những kỳ diệu của công trình sáng tạo và của lịch sử để ca ngợi sự quan phòng của Thiên Chúa, ông cũng quả quyết rằng sau khi chết, người lành sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn với Thiên Chúa.
Đây là công trình của một hiền nhân thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, tên là “Giê-su con của Si-rắc”. Theo ông, sự khôn ngoan chính là Sách Luật Giao Ước, người khôn ngoan đích thật chính là người trung thành phụng sự luật Thiên Chúa.
Trong tiếng Hip-ri, Hallel có nghĩa là ngợi khen, Ya là “Gia-vê” (yawh). Hallêluia nghĩa là “Ngợi khen Gia-vê”; “Ngợi khen Thiên Chúa”.
Trong tiếng Hip-ri có nghĩa là: “Quả thật, đúng như vậy”, cũng có thể dịch là: “Được, hoan hô, đồng ý, tán thành” và “ước được như vậy”.
Một thi sĩ là I-sai-a được Chúa ban nhiệm vụ ngôn sứ vào năm -740, lúc 25 tuổi. Nhiệm vụ của ông là loan báo sự sụp đổ của Israel và của Giu-đa, loan báo những hình phạt dành cho sự bất trung của dân. Ông thi hành sứ vụ trong 40 năm, vào thời nước Át-xi-ri đang chiếm ưu thế và thường xuyên đe dọa Israel và Giu-đa.
Isaia là vị ngôn sứ của lòng tin. Trong những cuộc khủng hoảng của dân tộc, ông đòi hỏi mọi người chỉ tin tưởng vào một mình Thiên Chúa .
Vì các chương 40-50 của sách Isaia do một tác giả khác (gọi là Isaia thứ 2) viết trong thời lưu đầy ở Ba-bi-lon, nhằm an ủi dân chúng và hướng lòng họ mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc. Phần này cũng nhấn mạnh Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, khôn ngoan và quan phòng. Trong phần này có 4 bài ca về Người Tôi Tớ Thiên Chúa, báo trước về Đức Kitô.
Các chương 56-66 của sách Isaia được coi là công trình của một ngôn sứ khác nữa (gọi là Isaia thứ ba).
Giê-rê-mi-a là một ngôn sứ ở Giêrusalem sau I-sai-a khoảng một thế kỷ (năm-650). Ông đầy lòng yêu dân, nhưng ông lại là người cô độc, không được cảm thông, thường bị ngược đãi.
Ông đã rao giảng, đe dọa báo trước sự sụp đổ, cảnh báo nhưng vô hiệu. Các vua bất tài kế tiếp nhau trên ngai vàng Đa-vit. Ông bị giới quân sự tố cáo là chủ bại, rồi bị bỏ tù.
Năm -597, vua Na-bu-cô-đô-nô-xô chinh phục Giêrusalem và bắt dân đi đầy. Năm -587, dân Giêrusalem nổi loạn, quân Can-đê lại kéo đến chiếm thành, đốt đền thờ và lại bắt thêm dân đi lưu đày. Sau khi Giêrusalem mất, Giê-rê-mi-a quyết ở lại quê nhà, nhưng sau đó, một nhóm người Do Thái chạy trốn sang Ai Cập đã lôi ông đi theo, và có lẽ ông đã chết ở Ai Cập.
Sách Ai Ca được soạn ở Palestine sau khi Giêrusalem sụp đổ năm -587. Sách gồm 5 bài thơ buồn dâng lên Thiên Chúa lời thương tiếc thành Giêrusalem sụp đổ. Tuy nhiên, từ những lời ai oán ấy, lại toát ra một niềm tin không lay chuyển nơi Thiên Chúa và một tâm tình thống hối sâu xa.
Theo lời mở đầu thì sách này do ông Ba-rúc là thư ký của Giê-rê-mi-a viết tại cảnh lưu đày ở Ba-bi-lon và gửi về Giêrusalem để đọc trong các buổi nhóm phụng vụ. Sách cũng an ủi những người lưu đày bằng cách nhắc lại niềm tin vào thời cứu thoát.
Trong đám người bị lưu đầy đợt 2, năm -587, có một vị ngôn sứ đi theo để an ủi khích lệ dân chúng. Đó là Ê-dê-ki-en. Thiên Chúa đã cho ông nhận thấy và tả lại cảnh vinh quang Thiên Chúa rời bỏ đền thờ Giêrusalem để đến với những người bị lưu đày ở Ba-bi-lon.
Ông kêu gọi đồng bào thật lòng hoán cải. Ông mạnh mẽ đòi hỏi họ phải ý thức về trách nhiệm cá nhân, và ông mở cho họ thấy viễn tượng một giao ước mới trong Thánh Thần. Ông cũng báo trước rằng một ngày kia họ sẽ được trở về trong một Đất Thánh đã đổi mới, trong một Giêrusalem mới hoàn toàn trung thành với Thiên Chúa, mà tên mới của thành ấy sẽ là “Thiên Chúa ở đó”.
Sách Đa-ni-en được viết vào khoảng năm 165 trước công nguyên, trong thời kỳ có cuộc bách hại của vua An-ti-ô-cô Ê-pi-pha-nô và cuộc chiến tranh giải phóng. Mục đích là nâng đỡ ý chí kháng chiến của người Do Thái.
6 chương đầu kể chuyện một thiếu niên tên là Đa-ni-en, phục vụ trong triều đình Ba-bi-lon và Ba-tư, mà vẫn luôn luôn trung thành với luật Chúa, bất chấp những khổ hình: bị ném vào lò lửa hay vào hang sư tử. Đa-ni-en còn giải thích các giấc mơ, tỏ rõ ý muốn của Thiên Chúa và báo trước về các đế quốc sẽ nối tiếp nhau trong tương lai cho tới ngày chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa và của những kẻ lành mà Thiên Chúa sẽ cho sống lại.
6 chương sau ghi lại các thị kiến về Nước Thiên Chúa sẽ đến trong tương lai. Đó là một quốc gia bao quát mọi dân nước, và không bao giờ chấm đứt. Đó là nước của dân thánh, của Thiên Chúa, của Đấng Con Người đã được trao mọi quyền bính.
Sau 4 ngôn sứ lớn là 12 ngôn sứ nhỏ. Gọi là “nhỏ” không phải vì vai trò, sứ mạng hoặc ảùnh hưởng của những vị này không đáng kể, ngược lại, đôi khi lại rất quan trọng, nhưng gọi là nhỏ, chỉ vì các sách đều ngắn. Theo thứ tự trong Kinh Thánh, danh sách 12 vị này là: Hô-sê, Gio-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Gio-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a và Ma-la-khi.
Ngôn sứ Hô-sê quê ở vương quốc phía bắc. Ông khởi sự rao giảng vào khoảng năm -750 dưới triều vua Giê-rô-bô-am II và kéo dài dưới các triều vua kế tiếp, có lẽ cho đến trước khi thủ đô Sa-ma-ri sụp đổ (-721). Đây là một gian đoạn đen tối đối với Israel: Trong nước hỗn loạn, tôn giáo và luân lý sa đọa, lại thường bị ngoại xâm.
Hô-sê là người đầu tiên đã diễn tả quan hệ giữa Thiên Chúa và Israel trong ngôn ngữ một cuộc hôn nhân. Ông đã cưới một người làm vợ và người vợ này đã bỏ ông, nhưng ông vẫn tiếp tục yêu qúy và đón nhận nàng về lại sau khi đã thử luyện. Kinh nghiệm đau thương ấy của ông được Chúa dùng làm hình ảnh diễn tả cách cư xử của Ngài đối với dân Ngài. Dân Israel đã được Thiên Chúa cưới lấy, nhưng họ đã ăn ở bất trung khiến Thiên Chúa phải nổi giận, nhưng Thiên Chúa vẫn còn thương mến, Ngài sẽ sửa trị để đưa Israel về lại với Ngài và ban lại niềm vui thuở ban đầu. Cách diễn tả của Hô-sê đã được các ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và I-sai-a 40-50 cũng như các sách Tân Ước lấy lại.
Sách này có lẽ được soạn vào khỏang năm 400 trước công nguyên. Sách tiên báo ngày của Chúa sắp đến và kêu gọi độc giả ăn chay, sám hối để nhận lấy Thánh Thần.
A-mốt là một người chăn cừu quê ở vương quốc Giu-da. Sau một thời gian ngắn thi hành sứ vụ tại Israel, ông bị trục xuất về Giu-đa.
Ông rao giảng cùng thời với Hô-sê, dưới triều vua Giê-rô-bô-am. Thời này, vương quốc có thịnh hành về kinh tế, nhưng sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo cũng gia tăng. Các lễ nghi có vẻ huy hoàng nhưng lại thiếu lòng đạo đích thực.
A-mốt lên án cuộc sống bất công của thành thị, sự an tâm giả tạo mà người ta đặt ở nghi lễ không hồn. Ông loan báo sẽ đến ngày Thiên Chúa đoán phạt Israel bất trung, tuy nhiên Ngài vẫn sẽ chừa lại cho một số ít ỏi.
Sách Ô-va-đia ngắn nhất, chỉ có 21 câu, không rõ được biên soạn vào thời nào. Tác giả tiên báo dân Ê-đôm sẽ bị trừng phạt vì đã can thiệp để chống Giêrusalem năm -587.
Sách này thuộc về một loại khác hẳn. Sách kể lại một ngôn sứ bất tuân. Thiên Chúa sai ông đi Ni-ni-vê, thủ đô đế quốc Át-sua để kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối. Thoạt đầu, ông trốn tránh sứ vụ, nhưng rồi lại kêu trách Thiên Chúa về những thành công bất ngờ của việc rao giảng của mình.
Sách được biên soạn sau thời lưu đầy, không có tính cách lịch sử, nhưng nhằm mục đích giáo huấn. Theo đó, những đe dọa là biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa chỉ chờ một dấu hối cải để tha thứ. Sách rao giảng một tinh thần đại đồng hết sức cởi mở: mọi người, mọi vật đều dễ thương. Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái mà còn là của dân ngoại.
Mi-kha là người Giu-đa, rao giảng dưới thời vua A-cáp và Ê-dê-ki-a, từ trước khi Sa-ma-ri sụp đổ (-721) cho tới khoảng năm -700 (đồng thời với Hô-sê và I-sai-a).
Ông tố cáo bất công xã hội và loan báo sự xét xử của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ông vẫn trông cậy rằng Thiên Chúa sẽ dành lại một số sót cho nhân loại. Ông loan báo vị vua hòa bình sẽ sinh tại Bê-lem.
Sách viết vào thế kỷ -7. Tác giả hớn hở loan báo sự sụp đổ của Ni-ni-vê, thủ đô của đế quốc Át-sua, tượng trưng cho những sức mạnh của sự dữ đang thao túng trên thế giới.
Sách viết vào thế kỷ -7 hoặc đầu thế kỷ -6 . Đây là một sách được soạn thảo công phu: mở đầu là một cuộc đối thoại căng thẳng giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa về việc người Can-đê áp bức dân Chúa. Sách và kết thúc bằng lời ca ngợi sự toàn thắng cuối cùng của Thiên Chúa.
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a rao giảng dưới triều vua Giô-đi-a (-640 đến -609) ở Giu-đa, trước thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a ít lâu. Lúc ấy Giu-đa bị đế quốc Át-xi-ri đô hộ, lại thêm các vị vua vô đạo càng làm gia tăng thêm sự hỗn loạn về tôn giáo. Nay Át-xi-ri bắt đầu suy yếu, người ta tin rằng sẽ khôi phục được quốc gia kèm theo một cuộc cải cách về tôn giáo. Tác giả loan báo sự phán xét của Thiên Chúa trên các dân tộc, để kêu gọi dân chúng hoán cải. Ông cũng gợi lên niềm hy vọng cho dân nghèo.
Sách này viết năm -520. Lúc ấy những người Do Thái đầu tiên từ Ba-bi-lon về tái thiết đền thờ, đã sớm rơi vào tuyệt vọng. Ngôn sứ Khác-gai và Da-ca-ri-a đã lay tỉnh mọi người, đã thúc giục thống đốc Giô-rô-ba-ben và thượng tế Giô-suê tiếp tục công việc tái thiết đền thờ. Ngôn sứ Khác-gai đã báo trước vinh quang tương lai để an ủi mọi người.
Sách Da-ca-ri-a gồm hai phần rõ rệt.
Phần đầu gồm các chương 1-8: với 8 thị kiến, viết vào cuối năm -520, chú trọng đến việc tái thiết đền thờ, đồng thời cũng nói về sự xây dựng lại quốc gia, với những đòi hỏi phải tinh sạch về luân lý và phải thức tỉnh về tôn giáo.
Phần 2 gồm các chương 9-14, do những tác giả khác viết vào khoảng năm -300, loan báo về thời cứu chuộc: Đấng Cứu Thế sẽ đến và thiết lập vương quốc của Thiên Chúa.
“Ma-la-khi” có nghĩa là “Thần sứ của tôi” (theo ý Ml 3,1). Sách được viết vào nửa đầu thế kỷ -5, trước khi ông Nơ-khe-mi-a về nước (-445). Lúc ấy, sự hứng khởi do Khác-gai và Da-ca-ri-a gây nên đã sớm tàn lụi, dân chúng bắt đầu chán nản và thờ ơ: Ma-la-khi chống lại tình trạng ấy, và mời gọi phải kính trọng những đòi hỏi của lề luật. Ông cũng báo trước về vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế, tức là Gio-an Tẩy Giả.
Luật Do Thái ấn định 5 ngày lễ lớn: 3 lễ vui, cũng là dịp hành hương (Lễ Vượt Qua; Lễ Ngũ Tuần; Lễ Lều) và 2 ngày lễ hoán cải ( Lễ Đầu Năm và Lễ Đền Tội).
<>-Lễ Số Mệnh: vào tháng 2 hoặc tháng 3, kỷ niệm việc giải phóng dân Do Thái thời hoàng hậu Ét-te.
Ban Giáo Lý Giáo Phận Đàlạt