TÀI LIỆU HỌC HỎI GIÁO LÝ DÀNH CHO LỄ SINH
TIN MỪNG LÀ GÌ?
Tin Mừng dịch từ tiếng euangelion của Hy Lạp, thường được dùng để chỉ việc loan báo tin chiến thắng.
Trong Cựu ước chữ “loan báo Tin Mừng” được dùng để nói về việc báo tin Thiên Chúa đến ban ơn giải thoát (Is 52, 7-10).
Trong Tân ước, chữ Tin Mừng dùng để chỉ lời Chúa Giêsu rao giảng về quyền cai trị của Thiên Chúa (Mt 4,23; Mc 1, 14-15) và cũng chỉ lời các tông đồ rao giảng về Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại (Mc 16, 15; Rm 1,1-4).
Về sau, từ thế kỷ thứ hai, chữ Tin Mừng mới được dùng để chỉ các tập sách chép lại các lời rao giảng trên đây.
Tóm lại, chữ Tin Mừng có 2 nghĩa: vừa là loan báo ơn cứu độ, vừa là tập sách chép lại lời loan báo đó.
DO THÁI THỜI CHÚA GIÊSU
Ở các địa phương, có các hội đường cho dân chúng họp nhau hàng tuần, vào thứ bảy, để nghe đọc, nghe giải thích Kinh Thánh và cầu nguyện. Trung tâm của tôn giáo là đền thờ Giêrusalem, do vua Hê-rô-đê tu bổ lộng lẫy. Hằng năm, các người Do Thái nam giới đều hành hương về đó, nhất là trong các dịp lễ lớn, như lễ vượt qua, lễ Năm mươi ( Ngũ tuần), lễ Lều tạm, lễ Cung hiến đền thờ.
QUÊ HƯƠNG CHÚA CỨU THẾ
Diện tích nước Do Thái thời Chúa Giêsu khoảng từ 20 đến 25 ngàn km2. So với diện tích nước Việt nam là 334.230km2, nước Do Thái chỉ bằng 1/15.
Sản xuất chính yếu là trồng trọt (lúa mì, dầu ô liu, trái vả nho) và chăn nuôi (dê, cừu).
Thời Chúa Giêsu, đế quốc Rôma bành trướng rộng khắp các miền quanh Địa trung Hải. Nước Do Thái nằm dưới ách thống trị của đế quốc Rôma, dưới các triều hoàng đế Au-gút-tô (-29 đến 14), Ti-bê-ri-ô (14-37), Cơ-lau-đi-ô (41-54, Nê-rô (54-68). Thời Chúa Giêsu, xứ Pa-lét-tin do một viên tổng trấn Rôma trực tiếp cai trị tên là Phong-xi-ô Phi-la-tô.
NHỮNG NƠI CHÚA GIÊSU ĐÃ ĐI QUA.
Bê-lem là nơi Chúa Giêsu được sinh ra.
Đền thờ Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu được dâng cho Chúa Cha.
Na-za-rét là nơi Chúa Giêsu làm thợ mộc.
Bê-ta-ni-a ( bên kia sông Gio-đan) là nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Ca-na là nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên trong tiệc cưới.
Ca-pha-na-um là nơi Chúa đã tới và ở lại đó ít ngày.
Bê-ta-ni-a (gần núi Cây dầu) là nơi Chúa Giêsu cho ông La-da-rô sống lại.
Xy-kha là nơi có giếng Gia-Cóp. Chúa Giêsu nói chuyện với một phụ nữ Sa-ma-ri về nước hằng sống.
Bết-xai-đa là nơi Chúa chữa một người bệnh phong.
Na-in là nơi Chúa Giêsu cho đứa con trai duy nhất của một bà góa sống lại.
Xi-đôn là nơi Chúa chữa lành bệnh cho một cô gái người Sy-rô Phê-ni-xi.
Tia (vùng Phê-ni-xi) là nơi Chúa chữa bệnh cho con gái một phụ nữ vùng này.
Xê-da-rê của Phi-líp-phê là nơi Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Mác-đa-la là nơi quê hương bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu.
Ép-ra-im ở phía bắc Giêrusalem, là nơi Chúa Giêsu ở ẩn tại đây lúc người ta tìm bắt Người.
Giê-ri-khô là nơi Chúa Giêsu vào trọ nhà ông Gia-kêu, người thu thuế.
Em-mau là nơi Chúa Giêsu gặp hai môn đệ, sau khi sống lại.
THÁNH GIUSE
Thánh Giuse thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng thánh Giuse chỉ là một thợ mộc bình dị ở Na-za-rét. Sau lễ hỏi, thấy Đức Maria chưa về với mình mà đã có thai, Giuse định tâm rời bỏ đi. Thiên Chúa đã sai thiên thần báo mộng cho Giuse biết Đức Maria mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, yêu cầu Giuse đón Maria về nhà và đặt tên con trẻ là Giêsu. Việc đặt tên này rất quan trọng: Theo luật Do Thái, đặt tên cho ai là nhận người ấy làm con về mặt pháp lý.
Vâng ý Chúa, thánh nhân trở thành bạn trung tín của Đức Trinh Nữ và bảo vệ cho con trẻ giữa bao hiểm nguy lúc sinh ra và trong thời thơ ấu.
Khi Đức Giêsu trở về Na-za-rét, dân làng nói đến Ngài như chú thợ mộc. Điều ấy cho thấy Chúa Giêsu đã tiếp tục nghề thợ mộc của thánh Giuse một thời gian khá lâu, và cũng có nghĩa là thánh Giuse đã qua đời trước khi Chúa Giêsu lên đường rao giảng.
Từ thời trung cổ, người ta đề cao tấm gương thầm lặng kín đáo của thánh Giuse. Rồi từ đó Hội Thánh càng lúc càng tôn kính ngài, vị gia trưởng của gia đình Na-za-ret. Càng tìm hiểu về thánh Giuse, người ta càng thán phục lòng tin đã giúp ngài gắn bó với chương trình của Thiên Chúa và lòng yêu mến của ngài đối với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Hội Thánh đã nhận ngài làm bổn mạng của Hội Thánh toàn cầu.
Máng cỏ là máng đựng thức ăn của bò lừa, khi sinh con trong cảnh bơ vơ không nhà, Đức Mẹ đã phải dùng một máng cỏ làm nôi đặt hài nhi Giêsu mới sinh (Lc2,7).
Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di (thế kỷ 12) là người đầu tiên có sáng kiến mừng lễ Giáng Sinh với một hang đá Bê-lem, với cảnh Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ, có Đức Mẹ và thánh Giuse, có các mục đồng và thiên thần. Ngài đặt cả chiên bò vào đó để nhắc lại lời tiên tri I-sai-a: “Con bò biết người tậu nó và con lừa biết chuồng của chủ, còn Israel không hay không biết, dân Ta không hiểu không tường.” (Is 1,3). Người ta còn dùng hai từ máng cỏ để chỉ toàn cảnh hang đá ấy.
CÁC PHE NHÓM
Vào thời Chúa Giêsu, trong dân Do Thái có một số phe nhóm như : Nhóm Biệt phái (Pharisiêu), nhóm Sa-đốc, nhóm Et-xê-nô.
Nhóm Biệt phái (Pha-ri-sêu): Đa số gồm những ký lục và luật sĩ thông thạo luật Mô-sê. Về phương diện luân lý, họ chủ trương giữ luật theo những truyền thống rất tỉ mỉ, vì thế nhiều lần họ đã bị Đức Giêsu đả kích rất nặng nề (Mt 23). Mặt khác, họ tin có thiên thần, tin người ta sẽ sống lại để được thưởng hoặc bị phạt đời sau, điều mà nhóm Sa-đốc không nhận. Họ cũng chờ đợi một Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi Đa-vít sẽ đến phục hồi tôn giáo và cứu dân tộc khỏi ách ngoại bang.
Nhóm Xa-đốc (do tên ông Xa-đốc, tư tế của Đa-vít) thường thuộc hàng tư tế và qúy phái. Họ chỉ nhận Ngũ Kinh là sách thánh, không nhận các truyền thống do các luật sĩ cắt nghĩa luật Mô-sê. Về phương diện chính trị, họ chấp nhận ách thống trị Rô-ma, nhóm Xa-đốc thường đối lập với nhóm Biệt phái.
Nhóm Ét-xê-nô, thường sống trong những tu viện, một đời khắc khổ, không vợ con, không tiền bạc. Tại Cum-ram, ở phía tây bắc biển Chết, người ta tìm thấy một tu viện thuộc nhóm này, với một số sách vở tài liệu của họ. Thánh Gio-an Tẩy Giả có lẽ đã liên lạc với nhóm này.
TIN MỪNG NHẤT LÃM LÀ GÌ?
Ai chăm chú đọc 4 sách Tin Mừng sẽ nhận thấy điều này: 3 Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca có rất nhiều điểm giống nhau; đồng thời 3 cuốn sách đó lại khác với Tin Mừng Gio-an.
Chính vì 3 cuốn Tin Mừng này có thể xếp thành 3 cột để nhìn một lượt giúp thấy ngay những chỗ giống nhau, mà được gọi là Tin Mừng nhất lãm (nhất là một, lãm là nhìn xem).
CÁC ANH EM CHÚA GIÊSU
Trong Tin Mừng có nhắc tới “những anh em” của Chúa Giêsu. Bên Do Thái người ta cũng dùng tiếng “anh em”, “chị em” để gọi các anh chị em họ như bên Việt Nam ta.
Tiếng “anh em”, “chị em” trong Tin Mừng (Mc 6,3) hiểu theo nghĩa đó.
Trong những người có họ với Chúa Giêsu về bên ngoại, phải kể đến ông Da-ca-ri-a và Ê-li-xa-bét, cha mẹ của Gio-an Tẩy Giả.
GIO-AN TẨY GIẢ
Đây là vị tiên tri sống đồng thời với Chúa Giêsu và có bà con với Chúa Giêsu, đóng một vai trò quan trọng trong việc phát sinh Kitô giáo, tên gọi Gio-an có nghĩa là “Thiên Chúa tha thứ”.
Cha của ông là một vị tư tế tên là Da-ca-ri-a và mẹ là bà Ê-li-xa-bét đã già mà vẫn còn hiếm muộn không con.
Ông sống khắc khổ trong hoang địa lâu năm, rồi khởi sự rao giảng rằng Đấng Cứu Thế sắp đến, phải kịp thời hoán cải để đón tiếp Ngài. Đám đông dân chúng tuôn đến dìm mình trong nước sông Gio-đan để biểu lộ lòng thống hối. Chính Chúa Giêsu cũng đến xin Gio-an làm phép rửa. Trong dịp này, Gio-an đã làm chứng rằng Đức Giêsu chính là Chiên của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc Israel.
Ông bị vua Hê-rô-đê An-ti-pa bỏ tù vì đã dám lên tiếng chỉ trích nhà vua đã cưới em dâu làm vợ (cướp vợ của em trai). Trong một tiệc rượu của vương gia, vua Hê-rô-đê đã ra lệnh cho lính vào tù chém đầu ông.
Ông được coi là vị “tiền hô”, vị dọn đường cho Đấng Cứu Thế. “Ông không phải là sự sáng nhưng được sai đến để làm chứng cho Đấng là sự sáng” (Ga1,8).
PHÉP RỬA CỦA GIO-AN VÀ PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU
Mặc dù vô tội, Đức Giêsu đã muốn lãnh nhận phép rửa của Gio-an để tỏ tình liên đới với các tội nhân mà Ngài đến cứu chuộc. Lễ rửa này là dịp để Ngài được biểu lộ là Con Thiên Chúa.
Sau ngày Chúa phục sinh, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là khởi đầu cho việc thanh tẩy trong Thánh Thần. Phép Rửa Chúa Giêsu lập vẫn lấy nước tự nhiên làm dấu hiệu, nhưng ơn được ban cho người tín hữu là chính Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho họ trở nên con của Thiên Chúa và thành viên của Hội Thánh Chúa Kitô.
TIN MỪNG MÁT-THÊU
Theo truyền thống Hội Thánh, tác giả sách Tin Mừng thứ nhất là thánh Mat-thêu, còn có tên là Lê-vi. Ông sống ở Ca-phác-na-um, làm nghề thu thuế. Được Chúa Giêsu kêu gọi, ông lập tức theo Ngài. Ông là một trong 12 tông đồ của Chúa. Có sách nói ông đã đem Tin Mừng tới xứ Ê-thi-óp. Ông đã bị giết chết vì đạo Chúa.
Tin Mừng Mát-thêu lúc đầu được biên soạn bằng tiếng A-ram rồi được dịch ra tiếng Hy lạp, khoảng năm 80-90.
Ngoài phần mở đầu về thời thơ ấu của Chúa (ch.1-2) và phần kết thúc với cuộc thương khó và phục sinh (ch.26-28), sách chia làm 5 phần.
Mỗi phần đều có phần thuật truyện và một bài giảng :
Thánh Matthêu muốn nói với người Do Thái. Tác giả thấm nhuần giáo lý Cựu Ước, thường trích dẫn Cựu Ước để chứng minh cho người Do Thái rằng Đức Giêsu đã làm trọn những điều đã báo trước trong Cựu Ước. Tác giả cũng hay nhắc đến các tập tục Do Thái mà không cần giải thích (vì người đọc đã biết rồi).
Tin Mừng Mt nhấn mạnh đến 4 điểm sau :
<>4.Hội Thánh là cộng đoàn những người tin vào Chúa Giêsu và Cha Ngài, và sống tình anh em với nhau.