1 Ga 2, 3-11; Lc 2, 22-35
CHỜ ĐỢI ĐẤNG CỨU ĐỘ
Trang Tin rất ngắn hôm nay (Lc 2, 22-35), Thánh Luca với ngòi viết của mình tiếp tục mặc khải cho thấy cùng với việc sinh ra như con người, Đức Giêsu Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, trong cùng lúc vừa là Ân Sủng Sự Sống tình yêu vĩnh hằng vừa là ân sủng mang lại Sự Sống tình yêu vĩnh hằng, và Sự Sống tình yêu vĩnh hằng nầy lại chính là Ánh Sáng cho toàn thể nhân loại (Ga 1, 3b), như được phản ảnh,trước tiên, trong 1 Ga 2, 3-11.
Ta thấy cụm từ “ở trong Đức Giêsu-Kitô” đồng nghĩa với “ở trong Ánh sáng” hay “ở trong Sự Sống” hay “ở trong Thiên Chúa-Tình Yêu”. Và Căn cứ vào đó (=tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa), ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Thiên Chúa , thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.” (1 Ga 2, 5-6)…
Và cũng cho thấy Đức Giêsu-Kitô chính là “ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho mụôn dân và là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”(Lc 2, 30-32); đàng khác, cho thấy Đức Maria, Thánh Giuse, ông Simêon là những người đầu tiên được hưởng ân sủng nầy, nhờ sống và vâng theo “theo Luật Chúa truyền” (Lc 2, 24)…
Ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem để dâng cho Chúa khi đã mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môisen, như đã viết trong Lề Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa”, và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là “một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con”.
Có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông đang ở tại Giêrusalem.
Chính vì có Thánh Thần ở trong ông nên ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ.
Ông ẵm lấy ngay Hài Nhi trên tay của mình khi thấy cha mẹ hài Nhi bồng đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy. Không chỉ bồng ẵm nâng niu hôn hít như bao người khác mà hơn thế nữa, ông đã chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israerl dân Chúa”.
Thấy cảnh tượng như vậy, cha mẹ Hài Nhi kinh ngạc về những điều mà ông già Simêon đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria, mẹ Người, rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”.
Đọc kỹ 2 chương đầu củam ta thấy Tin Mừng theo Thánh Luca không phải là một câu chuyện lịch sử theo ý nghĩa mà nhiều người gán cho lịch sử.
Ta thấy chúng dùng để phục vụ hơn là bất cứ điều gì khác, nó như một tấm gương phản chiếu mà trong đó những Kitô hữu tòng giáo từ lương dân, khám phá ra rằng Đức Kitô đã đến để thực hiện những lời tiên tri của Cựu Ước và để đáp ứng những khát vọng sâu xa hơn của trái tim nhân loại.
Kế đến, ta thấy chúng là biểu tượng và là tấm gương của những gì đã xảy ra giữa các Kitô hữu vào lúc sách Tin Mừng Luca được viết. Các cộng đoàn đến từ Lương Dân đã được khai sinh từ các cộng đoàn người Do Thái cải đạo, nhưng họ rất đa dạng. Tân Ước không tương ứng với những gì Cựu Ước mường tượng và mong đợi. Đó là “dấu hiệu của sự mâu thuẫn” (Lc 2, 34), nó là cái cớ cho sự căng thẳng và là nguyên nhân của sự đau khổ tột cùng, của sự đớn đau. Trong thái độ của Đức Maria là hình ảnh của Dân Chúa, tác giả Luca đại diện một mẫu mực cho cách làm thế nào để kiên trì trong Tân Ước, mà không phản bội lại Cựu Ước.
Trong hai chương này của sách Tin Mừng Luca, mọi việc xoay quanh việc chào đời của hai hài nhi: ông Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu. Hai chương này khiến cho chúng ta cảm thấy hương thơm của sách Tin Mừng theo Luca. Trong đó, môi trường là sự dịu dàng và lời ngợi khen.
Từ đầu chí cuối, có lời ngợi khen và ca ngợi, bởi vì cuối cùng, lòng thương xót của Thiên Chúa đã được mặc khải trong Hài Nhi Giêsu; Chúa hoàn thành những lời hứa đã làm với các Tổ Phụ. Và Thiên Chúa hoàn thành chúng nhân danh người nghèo khó, kẻ bần hàn, giống như bà Êlisabéth và ông Giacaria, Đức Maria và thánh Giuse, bà tiên tri Anna và cụ ông Simêon, các mục đồng. Tất cả họ đã biết cách chờ đợi sự xuất hiện của Chúa.
Sự khẳng định của tác giả Luca trong việc nói rằng Đức Maria và thánh Giuse đã làm tròn mọi việc như Lề Luật đặt ra, gợi nhớ lại những gì thánh Phaolô đã viết trong các Thư gửi tín hữu Galát: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
Câu chuyện của cụ già Simêon dạy rằng hy vọng, thậm chí nếu không phải là ngay lập tức, sẽ được thực hiện vào một ngày nào đó. Đó không phải là việc nản lòng, nó được thực hiện. Nhưng phương cách không luôn tương ứng với những gì chúng ta tưởng tượng. Cụ già Simêon đã chờ đợi Đấng Mêssia của dân Israel. Đi đến Đền Thờ ở giữa nhiều cặp vợ chồng đã đem con mình đến đó, ông trông thấy việc thực hiện niềm hy vọng của mình và niềm hy vọng của Dân Chúa Israel: “Chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel Dân Chúa”.
Với trang Tin Mừng này, ta có những chủ đề ưa thích của thánh Luca, đó là, lời khẳng định mạnh mẽ về hoạt động của Chúa Thánh Thần, về lời cầu nguyện và về môi trường cầu nguyện, một sự chú ý liên tục đến hành động và sự tham gia của các người phụ nữ và mối quan tâm thường trực đến những người nghèo khó và sứ điệp cho những người nghèo khó.
Tuệ Mẫn