Dcr 2, 14-17; Lc 1, 26-38
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng kính Đức Mẹ Guadalupe.
Đức Mẹ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Nuestra Señora de Guadalupe) còn được biết với tên gọi Đức Trinh Nữ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Virgen de Guadalupe) là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo Rôma dành cho Đức Trinh Nữ Maria.
Hai tài liệu, được xuất bản trong thập niên 1640, một bằng tiếng Tây Ban Nha, một bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ của người dân Aztec), cùng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong khi đi bộ từ ngôi làng của mình đến thành phố Mexico vào sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1531 (Ngày hôm sau là Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Đế quốc Tây Ban Nha), nông dân Juan Diego thấy trên sườn đồi Tepeyac một cô gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, được bao quanh bởi hào quang ánh sáng.
Bà đó nói chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ địa phương Nahuatl, Bà đã yêu cầu Juan Diego đi nói với Giám mục xây dựng một nhà thờ ngay tại nơi đó. Từ những lời nói của bà, Juan Diego nhận ra đó chính là Maria. Diego đã kể lại câu chuyện của mình với Tổng Giám mục người Tây Ban Nha, Fray Juan de Zumárraga, người đã yêu cầu ông quay trở lại đồi Tepeyac để nói với người phụ nữ lạ là hãy cho một dấu hiệu để chứng minh.
Dấu hiệu đầu tiên mà bà tỏ ra là việc chữa lành bệnh tật cho người chú của Juan. Đức Trinh Nữ nói với Juan Diego hãy leo lên đồi Tepeyac và hái những bông hồng. Mặc dù lúc đó đang là tháng mười hai đã rất muộn so với mùa hoa nở nhưng Juan Diego đã tìm thấy những bông hoa hồng Castilian trên đỉnh đồi cằn cỗi, không có nguồn gốc từ Mexico.
Đức Trinh Nữ yêu cầu ông sắp xếp những bông hồng vào trong chiếc áo choàng tilma dệt bằng sợi xương rồng của mình.
Điều kỳ lạ xảy ra khi Juan Diego mở áo choàng trước khi sự chứng kiến của Giám mục Zumárraga vào ngày 12 tháng 12, những bông hoa rơi xuống sàn nhà nhưng ở vị trí đó lại xuất hiện hình ảnh của Đức Trinh Nữ Guadalupe một cách kỳ diệu được in trên vải.
Năm 1910, Giáo hoàng Piô XI công bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh và sau đó của Philippin vào năm 1935. Năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố Maria là Bổn mạng của toàn châu Mỹ, Nữ vương Châu Mỹ La Tinh, và người bảo vệ cho những trẻ em không được sinh ra.
Tấm hình này hiện nay vẫn còn được trưng bày tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe, một trong những điểm hành hương thu hút nhiều người nhất trong thế giới công giáo. Hình ảnh này cũng phổ biến trong văn hóa Mê xi cô với tên gọi: Nữ Vương Mexico.
Đức Mẹ ở đồi Tepeyac, với nét mặt dịu hiền và thanh thản, được in trên tấm áo choàng của thánh Juan Diego, là "Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ thật của Thiên Chúa, Đấng mà Mẹ luôn phụng sự". Bức ảnh ấy trình bày "người phụ nữ mặc áo mặt trời, với vầng trăng dưới chân, và một triều thiên 12 ngôi sao trên đầu và phụ nữ ấy đang có thai" (Kh 12,1-2) và chỉ cho các thổ dân và người lại thấy sự hiện diện của Đấng Cứu Thế. Mẹ luôn dẫn chúng ta đến cùng Chúa, Con của Mẹ, qua đó ta thấy biểu lộ nền tảng của phẩm giá của mọi người, như một tình yêu thương mạnh mẽ hơn các quyền lực của sự ác và sự chết, và đồng thời cũng là nguồn vui mừng, lòng tín thác con thảo, an ủi và hy vọng.
Trang Tin Mừng rất ngắn và quen thuộc quá với chúng ta nói lên tâm tình của Mẹ Maria. Với lời xin vâng, Mẹ đón nhận tất cả vui buồn của cuộc sống qua sự quan phòng của Thiên Chúa để rồi Mẹ lại che chở cho con cái Mẹ, tất cả những ai đến với Mẹ được Mẹ choàng cho cả cuộc đời, che chở cả cuộc đời cho những ai đến với Mẹ.
Lời Chúa chúng ta vừa nghe, mở ra cho chúng ta một cách nhìn và đánh giá mới về các biến cố. Hãy biết nhìn các biến cố theo tinh thần của Chúa muốn.
Gioan Tiền Hô tuy không mang tên là Êlia, nhưng ông lại là hiện thân của Êlia. Ông xuất hiện trong vai trò của Êlia. Ông đã sống và đã nói lên tinh thần của Êlia.
Như vậy có thể nói: Gioan Tiền Hô là Êlia mới. Và nếu Êlia xuất hiện, thì Đấng Thiên Sai và “Ngày của Giavê” mà dân Chúa hằng mong đợi cũng đã bắt đầu. Chính bản thân của Gioan Tiền Hô đã là một dấu chỉ, là một thời điểm.
Vâng! Đấng mà Gioan loan báo: Ngài đã đến rồi. Đó là Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta.
Chúng ta đã biết rõ nơi Ngài đã sinh, những nơi Ngài đã sống.
Chúng ta đã biết những lời Ngài đã dạy dỗ chúng ta.
Chúng ta đã biết những việc Ngài đã làm, những đau khổ Ngài đã chịu.
Chúng ta đã biết cái chết đau thương của Ngài ở trên cây Thánh Giá.
Chúng ta đã biết sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài.
Trước khi về trời Ngài còn tuyên bố một lời mà tất cả chúng ta vẫn còn nhớ: "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)
Đức Giám mục Curtis giáo phận Wilington và Đức Hồng Y Newman là hai người bạn thân thiết. Cả hai trước kia là Anh giáo, nhưng đã trở lại công giáo. Một bữa nọ, Đức Curtis đến thăm Đức Hồng Y. Trong câu chuyện, Đức Hồng Y cho biết Ngài đã được đặc ân của Tòa Thánh giữ Mình Thánh Chúa trong nhà ngài ở. Ý nghĩ Thiên Chúa ở với các ngài trong cùng một nhà đã gây xúc động nhiều cho Đức Curtis, nhưng khi Đức Hồng Y mời ngài ở lại đêm với mình, ngài từ chối và nói: "Con sẽ không chợp mắt được tí nào trong đêm, nếu con nghĩ và biết rằng Chúa đang ở cùng một nhà với con".
Chúa đã đến, nhưng chúng ta đã gặp được Chúa chưa? Muốn gặp được Chúa tôi phải làm gì?
Trong kho tàng truyện ngụ ngôn của người Tây Phương có câu chuyện này:
Vào buổi sáng nọ, bác thợ giầy thức dậy thật sớm. Bác quyết định sửa soạn chiếc xưởng nhỏ của bác cho tươm tất rồi vào phòng chờ cho được vị khách quí. Và người khách đó không ai khác là Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho bác biết Ngài sẽ đến thăm bác trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng vừa rọi qua khung cửa, bác đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng bác hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đã đến. Bác ra mở cửa. Thế nhưng người đang đứng trước mặt bác không phải là Chúa mà là người phát thư.
Sáng hôm đó là ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi, tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để ông run lẩy bẩy ngoài cửa. Bác mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy trở vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn ra cửa sổ bác thấy có một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Bác gọi em bé đó lại để hỏi cho biết lý do. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy tờ giấy viết vài chữ để trên bàn, báo cho người khách quí biết là mình phải đi ra ngoài.
Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà. Mãi đến chiều tối bác ta mới tìm thấy nhà đứa bé, và khi bác về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà bác thấy có người đang đợi, nhưng không phải là Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Suốt mấy ngày nay, bà đã không có gì bỏ bụng. Vì bị đói như thế cho nên bà cũng không còn sữa cho con bú. Bác thợ giầy tận tụy lo lắng cho cả hai mẹ con.
Công việc xong xuôi thì đã quá nửa đêm. Mệt quá bác để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà chưa thấy Chúa đến, nhưng đột nhiên trong giấc ngủ người thợ giày nghe thấy tiếng Chúa nói với bác:
– Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống.
– Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà.
– Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta.
– Cám ơn con đã tiếp đón Ta trong ngày hôm nay.
Giáng Sinh lại sắp về với chúng ta. Chúa đã đến và Ngài đang đến với mỗi người, đến qua Lời của Ngài, qua những biến cố và qua những con người. Ai là người sẽ gặp được Chúa? Đó là những con người có một trái tim quảng đại, đôi bàn tay giang ra, với cặp mắt cảm thông. Ngài cần một tách trà, một chén cơm, một ly nước, một lời khích lệ, một sự đồng cảm, tha thứ.
Lạy Chúa xin cho mỗi người trong gia đình chúng con mở đôi mắt con thật to để con có thể nhìn thấy Chúa. Xin mở tâm hồn con thật rộng để con có thể đón Chúa vào lòng. Amen.
Tuệ Mẫn