Quý vị và anh chị em đang theo dõi phóng sự đặc biệt về cuộc rước kiệu kính Đức Mẹ Fatima tối 12 tháng 5 năm 2015 tại linh địa Fatima. Hàng mấy chục ngàn người từ bốn phương trời đã tề tựu về linh địa này và tham gia trong cuộc rước kiệu tối nay.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Có lẽ người Công Giáo Việt Nam nào cũng hát thuộc lòng bài ca “Năm xưa trên cây sồi làng Fatima xa xôi, có Đức Mẹ Chúa Trời hiện ra uy linh sáng chói. Mẹ nhắn nhủ người đời, hãy mau ăn năn đền bồi. Hãy tôn sùng Mẫu Tâm, hãy năn lần hạt Mân Côi…”. Hình ảnh Đức Mẹ Fatima luôn gắn liền với cây sồi. Đức Mẹ hiện ra “uy linh sáng chói” trên một cây sồi ở làng Fatima xa xôi. Trong đời, người tín hữu nào cũng mong muốn được ít là một lần hành hương đến Fatima cầu nguyện bên Mẹ.
Cũng như Lộ Đức, Fatima là trung tâm hành hương Đức Mẹ nổi tiếng trên thế giới. Tại làng Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần với ba trẻ chăn chiên Lucia, Phanxicô và Gianxita. Thời gian này đang xảy ra chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Các nước Châu Âu kinh hoàng và kiệt quệ vì chiến tranh. Giữa bối cảnh đau thương đó, Đức Mẹ đã đến thăm và can thiệp. Sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi đầu tiên qua ba trẻ là: “Các con hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện thật nhiều!”. Ngày 19-8-1917, Đức Mẹ đề nghị: “Hãy hy sinh nhiều để xin ơn tha thứ cho các tội nhân. Có rất nhiều linh hồn đang sa xuống hỏa ngục, vì không có ai hy sinh đền tội và cầu nguyện cho họ”. Mỗi ngày 13, từ tháng 5 đến tháng 10, Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ. Người đến cầu nguyện mỗi ngày một đông hơn. Đức Mẹ hiện ra lần cuối cùng vào ngày 13-10-1917, và có một phép lạ hùng vĩ xảy ra như chính Mẹ đã hứa trước đó: trước đám đông hơn 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa trên không trung. Những người có mặt lúc đầu lo sợ vì họ nghĩ ngày tận thế đã đến, sau đó họ vui mừng và quỳ gối lần hạt, nhiều người ăn năn khóc lóc sám hối tội lỗi của mình.
Từ Fatima, Đức Mẹ đã truyền đi thông điệp cho cả thế giới, như một điều kiện khẩn thiết để thế giới được hòa bình: “Hãy siêng năng lần hạt; hãy cải thiện đời sống; hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.
Chiến tranh thế giới kết thúc vào tháng 11-1918. Người ta tin chắc đó là do quyền năng của Đức Mẹ. Đất nước Bồ Đào Nha và Châu Âu được hòa bình. Fatima từ đó đã trở nên trung tâm hành hương quốc tế, mỗi ngày đón tiếp hàng ngàn tín hữu đến cầu nguyện.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1942, Đức Giáo Hoàng Piô XII một lần nữa dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã trao phó gia đình nhân loại cho Đức Mẹ sau ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II (1964) và một lần nữa ngài dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Ngày 13-5-1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới linh địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ (sau 1 năm ngài bị ám sát tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981). Ngài tin mình sống sót nhờ sự can thiệp trực tiếp của Đức Mẹ Vô Nhiễm. Chính Ali Agca, kẻ bắn Đức Thánh Cha, một tay bắn súng thiện xạ, cũng hết sức ngạc nhiên, không thể hiểu được vì sao ngài không chết. Sự kiện lạ thường ngoài sức tưởng tượng này đã xảy ra đúng vào ngày kính nhớ Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ Phanxicô, Giacinta va Lucia ở Fatima, khiến Đức Thánh Cha nghĩ ngay đến Người Mẹ trên trời dấu yêu. Đức Thánh Cha kết luận: “Một người bắn, nhưng một người khác hướng dẫn đường đạn”. Và Đức Thánh Cha thêm: “Đức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”. Do lòng biết ơn Đức Mẹ Fatima, kể từ sau ngày bị nạn, Đức Thánh Cha đã có nhiều nghĩa cử thánh thiện nhằm tôn vinh và tạ ơn Đức Mẹ. Chẳng hạn, ngày 13.5.1982, Đức Thánh Cha đã hành hương Fatima và đặt lên chiếc triều thiên của tượng Đức Mẹ tại đền thánh Fatima viên đạn lấy ra từ thân thể, như một lời khẳng định với thế giới rằng, Đức Mẹ đã che chở ngài.Tiến xa hơn nữa, trong nghĩa cử tỏ lộ lòng yêu mến Nữ Vương Fatima, đó là cuộc hành hương đền thánh Fatima dịp phong Á Thánh cho hai thánh trẻ Phanxicô và Giacinta năm 2000, cũng vào ngày 13-5, Đức Thánh Cha đã đặt dưới chân tượng Đức Mẹ Fatima chiếc nhẫn Giám mục quý giá do Đức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Tổng Giám Mục Kracow dâng tặng lúc Đức Thánh Cha được bầu làm Giáo hoàng ngày 16-10-1978. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố ngày 13-5 hàng năm sẽ trở thành ngày lễ kính Đức Mẹ Fatima. Chưa hết, để diễn tả lòng yêu mến Đức Mẹ thẳm sâu của mình, Đức Thánh Cha đã viết tông thư “Kinh Mân Côi kính Đức Trinh Nữ Maria” và thêm vào chuỗi Mân Côi truyền thống mầu nhiệm Năm Sự Sáng. Ngài cũng công bố năm 2003 là Năm Thánh Mẫu Mân Côi, nhằm cổ súy việc đọc kinh truyền thống này để tôn vinh mầu nhiệm Mân Côi và các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu Thế. Qua đó, Đức Thánh Cha khuyên dạy các tín hữu hãy yêu mến, hãy chú trọng nhiều đến chuỗi Mân Côi trong đời sống Kitô hữu của mình, hãy chuyên chăm cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã dâng hiến triều đại Giáo Hoàng của mình cho Đức Mẹ Fatima vào ngày 13-5-2013. Ngài đã hai lần yêu cầu Đức Hồng Y José da Cruz Policarpo, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Bồ Đào Nha dâng hiến sứ mệnh theo Thánh Phêrô của ngài lên Đức Mẹ Fatima.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Hàng mấy chục ngàn ngàn người đang sốt sắng lần chuỗi và lắng nghe suy niệm với tất cả lòng yêu mến Đức Mẹ.Từng đoàn hành hương đủ mọi màu da, ngôn ngữ, già trẻ, nam nữ. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của một Giáo Hội cầu nguyện khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh các Tông đồ cầu nguyện cùng Đức Mẹ, chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến.
Hầu hết những người hành hương này đến từ các quốc gia trên thế giới. Khi đến Fatima, nếu đi theo các đoàn du lịch quý vị và anh chị em sẽ được dẫn đi thăm những địa điểm di tích lịch sử, chẳng hạn như nơi Thiên thần hiện ra lần đầu với ba trẻ vào mùa xuân năm 1916 và lần 2 vào tháng 10.1916. Thiên thần chuẩn bị trước 1 năm cho sự kiện trọng đại Đức Mẹ hiện ra. Các khách hành hương sẽ đi theo chặng Đàng thánh giá Hungary gồm 14 nhà nguyện nhỏ dọc theo đường lót đá bằng phẳng, dài khoảng 2km, hai bên là vườn ô liu xanh mướt cho tới tượng đài Đức Kitô trên Thập giá bằng cẩm thạch. Rồi chúng ta đến với đến tượng Đức Mẹ đứng trên bệ có mái che, phía trước có tấm bảng ghi bằng ba thứ tiếng Bồ, Anh và Pháp: “Valinhos: nơi đây Đức Mẹ hiện ra vào ngày 19-8-1917, và nói: ‘Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, và làm những việc hy sinh cho các kẻ có tội’”.Vahinhos là địa điểm Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 với ba trẻ.
Sau đó, các khách hành hương có thể đi xe bus khoảng 3km đến Aljustrel, thăm nhà của của ba trẻ chăn chiên. Phong cảnh yên bình và xanh tươi cây cỏ nơi đây gợi về ngôi làng nhỏ ngày xưa êm đềm. Căn nhà Lucia gạch mái ngói, tường bên ngoài tô xi măng màu trắng. Ông ngoại của Lucia sinh trưởng tại làng Aljustrel. Thân phụ mẫu của Lucia là Maria và Antonio Santos, gia đình có 7 con, 6 gái 1 trai. Lucia sinh năm 1907 và là con út. Bên trong căn nhà, những vật dụng cá nhân của Lucia và gia đình được lưu giữ cẩn thận, từ giường nệm, bàn tủ, máy may, khung dệt vải, nồi nêu soong chảo, các vật dụng cá nhân như giỏ mây, ly tách…và vẫn còn có người cháu gái của Lucia, nay cũng đã cao niên. Các khách hành hương sẽ thăm Nhà Bào tàng Aljustrel, có 12 phòng ghi lại cuộc sống của làng này từ mấy thế kỷ trước. Nhà Bảo tàng được khai trương vào ngày 19-8-1992 và là sở hữu của Thánh địa Fatima.
Đến Fatima, ai cũng muốn nhìn thấy cây sồi. Trước nhà Lucia có cây sồi bấc, một loại cây võ rất dày dùng làm nút bần. Cây sồi xanh quanh năm, thường trồng ở Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và ở Bắc Phi như Morocco, Tunisia, Algeria. Cây sồi sống rất lâu năm, vỏ cây được lột cứ mỗi 10 năm một lần. Cây sồi là một biểu tượng của xứ Bồ Đào Nha. Ở xứ này, đốn cây sồi bấc là bất hợp pháp. Bồ Đào Nha là nước sản xuất đến 50% sồi bấc của cả thế giới.
Từ nhà Lucia, đi bộ chừng nửa cây số là đến nhà Phanxicô và Giaxinta. Căn nhà đơn sơ, nhỏ hẹp và mái thấp, nhà của gia đình nghèo, những vật dụng cá nhân của hai trẻ và gia đình được xếp đặt ngăn nắp.
Nếu chúng ta tiếp tục cuộc hành trình thì có thể đến thăm ngôi nhà thờ Giáo xứ của ba trẻ đã được rửa tội. Ra vùng ngoại ô Fatima viếng nơi chôn cất đầu tiên của hai trẻ Phanxicô và Giaxinta tại một nghĩa trang. Từ Fatima, chúng tôi đi 60km đến Santarem thăm Nhà thờ Phép Lạ Thánh Thể. Ban chiều trở về lại Fatima mua quà lưu niệm trong cửa hàng rất lớn rồi chúng tôi đi thăm các Thánh đường và dâng lễ ở Nhà nguyện được xây dựng chính nơi Đức Mẹ hiện ra tại cây sồi năm xưa. Ban tối tham gia giờ cầu nguyện và cung nghinh Đức Mẹ tại quảng trường.
1. Nguồn gốc của từ Fatima
Tên Fatima có nguồn gốc từ tiếng Ả rập. Đó là tên của một công chúa xứ Ả rập. Cô Fatima bị quân Công Giáo bắt làm con tin trong thời gian người Moro chiếm đóng Bồ Đào Nha. Sau đó, cô trở thành vị hôn thê của Bá tước Ourém. Cô đã trở lại đạo và lãnh nhận Bí tích Rửa tội trước khi thành hôn với Bá tước này vào năm 1158. Cô lấy tên là Oureana (Oriane), tên của thành phố Ourém ngày nay phát xuất từ chữ Oureana.
Làng Fatima nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành thị trấn sầm uất và là linh địa thuộc thành phố Ourém trong quận Santarém.
2. Đôi nét lịch sử
Năm 1917, Fatima là miền quê gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Dân lao động làm ruộng nương rẫy. Trẻ em thường chăn dắt bò, dê, cừu…Phần lớn dân cư đều mù chữ, chỉ có khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết.
Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel, đây là một trong những thôn xóm xưa nhất của xứ đạo Fatima. Vào đầu thế kỷ XX, Aljustrel là một nơi chỉ có 25 gia đình sinh sống với khoảng 100 cư dân, làm nghề nông và chăn cừu, phần lớn mù chữ. Họ kiếm sống ở vùng đất khô cằn bằng cần cù làm việc. Ban tối cả gia đình quây quần bên lò sưởi dùng bữa và tạ ơn Chúa. Cuộc sống của dân quê chất phác. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái, sinh ngày 22-3-1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11-6-1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11-3-1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi cỏ “Cova de iria” cách thôn chừng 2 km.
Vào ngày đầu tiên của năm 1916, trời mưa lớn, ba em nhỏ là Lucia 9 tuổi, và hai người em họ là Phanxicô 8 tuổi và Giaxinta 6 tuổi đang trú mưa tại một hang. Bỗng nhiên, một vầng sáng trắng xuất hiện trên đồng cỏ. Các em sửng sờ khi thấy một thanh niên trẻ đẹp trong y phục màu trắng đứng giữa vầng sáng. Người thanh niên trong vầng sáng ấy nói với các em rằng: "Ðừng sợ, ta là sứ thần hòa bình. Hãy cùng ta cầu nguyện". Ðoạn người quỳ xuống và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con tin kính, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa. Xin Chúa tha thứ cho những kẻ đã không tin kính, không thờ lạy, không trông cậy và không yêu mến Chúa". Thiên Thần lại cúi đầu sâu hơn, và cầu nguyện ba lần như vậy, các em cũng lập lại lời cầu nguyện này với Thiên Thần.
Rồi vào một ngày mùa hè, đang khi các em vui đùa, Thiên Thần lại hiện ra với các em và bảo: "Hãy cầu nguyện và cầu nguyện thật nhiều. Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria đã dành cho chúng con đầy lòng thương xót. Hãy tiếp tục dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện và những hãm mình. Hãy biến mọi việc làm thành những hy sinh dâng lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi đã xúc phạm đến Người, và cầu cho kẻ có tội ăn năn trở lại. Bằng phương thế này, hòa bình sẽ đến với quê hương các con… Ta là Thiên Thần bản mệnh của nước Bồ Ðào Nha. Hãy đón nhận và vui lòng chịu đựng mọi thử thách Chúa sẽ gửi đến cho các con.". Mùa thu năm ấy, Thiên Thần lại hiện đến cùng các em. Trong lần hiện ra thứ ba này các em thấy Thiên Thần một tay bưng một chén Thánh, một tay cầm Mình Thánh Chúa, các em đã nhìn thấy những giọt máu nhỏ xuống chén thánh. Ðể chén thánh và Mình Thánh Chúa lơ lửng trên không trung, Thiên Thần cung kính quỳ xuống đất và cầu nguyện: "Lạy Ba Ngôi Cực Thánh – Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần – con cung kính thờ lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mình và máu thánh cực trọng, linh hồn và bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô đang ngự trong các nhà chầu trên khắp hoàn cầu để đền tạ vì những tội bội bạc, thờ ơ, xúc phạm đến Người. Cậy vì công nghiệp vô cùng của Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu và Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria, xin Chúa cho kẻ có tội được ăn năn trở lại.".
Sau hơn một năm, kể từ ngày Thiên Thần hiện ra lần đầu tiên cùng các em, vào ngày 13 tháng 5 năm 1917, Ðức Mẹ đã hiện ra cùng các em. Trong những tháng kế tiếp, ba trẻ trở lại đồi Cova da Iria theo lời dặn dò của Đức Mẹ, bất chấp những khó khăn ngoại cảnh như thời tiết bất thuận lợi hay khó khăn tinh thần như sự ngờ vực và cấm đoán của cả chính quyền lẫn giáo quyền. Vượt qua tất cả, các em vui mừng và hy vọng tiến đến điểm hẹn, vừa đi vừa lần hạt, lòng khát mong gặp lại Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ luôn tôn trọng lịch gặp gỡ với các em như đã hẹn trước là ngày 13 mỗi tháng (trừ tháng 8 các em bị nhốt), khích lệ, trò chuyện, cầu nguyện, dạy dỗ, nâng đỡ, ủi an và mạc khải cho các em nhưng điều cần kíp do Đức Mẹ mong muốn hay hoàn cảnh đòi buộc.
a. Đức Mẹ hiện ra lần đầu
Ngày 13-5-1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng tinh hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giới chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau.
Giacinta quên giữ kín nên về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lucia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên Đức Giám Mục Giáo Phận Leiria, cha xứ viết: cần phải xa lánh chuyện này.
b. Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai
Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh. Đức Mẹ hiện ra với 3 em, nhắc Lucia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi, đồng thời báo trước cái chết của 2 anh em Phanxicô và Gianxinta: “Ta sẽ sớm đưa Phanxicô và Gianxinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta”. Đức Mẹ cũng yêu cầu Lucia học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác. Những người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ nơi Đức Mẹ đứng trĩu xuống dưới một sức nặng, rồi đột nhiên bật lên khi Đức Mẹ biến đi.
c. Đức Mẹ hiện ra lần thứ ba
Ngày thứ Sáu 13-7-1917, “bà mặc áo trắng” lại hiện ra với 3 em, có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lucia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh mau chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em "bí mật" gọi là "bí mật Fatima". (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo Hội mới công bố).
d. Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư
Ngày 10-8-1917, viên chánh tổng, một người chống đối hàng giáo sĩ đòi 3 em tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả. Ngày 13-8, ông ta nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng hoài công. Rốt cuộc, ngày 15-8, ông ta phải thả 3 em ra.
Tuy nhiên, ngày 13-8, có khoảng 18.000 người tới bãi chờ xem sự lạ, nhưng 3 em vắng mặt vì còn bị nhốt. Chúa Nhật 19-8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho những người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin.
e. Đức Mẹ hiện ra lần thứ năm
Ngày 13-9, có khoảng 30.000 người tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới.
f. Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu
Ngày 13-10-1917, mưa như trút nước trên bãi Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000 người kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và tỏ cho các em biết, Bà chính là Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Đức Mẹ mời gọi các em cầu nguyện, làm việc đền tạ và tiếp tục lần chuỗi mỗi ngày. Đức Mẹ cũng muốn người ta phải xây một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ tại đây. Đức Mẹ nhắc nhở thế giới, đừng xúc phạm đến Chúa nữa, Người đã bị xúc phạm quá nhiều.Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối. Khi Đức Mẹ về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời dường như xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi. Việc lạ xảy ra trong 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy.
Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời.
Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bi, Chúa Hài Đồng Giêsu và sau hết là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với 3 em.
Phanxicô và Giaxinta chết sớm trong đợt dịch cúm Tây ban nha. Phanxicô chết năm 1919. Jancinta chết năm 1920. Cả 2 em đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng đáng kính vào ngày 13-5-1989 và được phong Chân Phước vào ngày 13-5-2000. Mộ của 2 em hiện nằm trong lòng Vương cung thánh đường Fatima.Còn Lucia vào tu viện dòng Dorothea ở Pontevedra (Galicia, Tây ban nha) ngày 24-10-1925, sau đó khấn lần đầu ở Tuy (Tây ban nha) năm 1928. Năm 1925 và 1929, Lucia lại được Đức Mẹ hiện ra với mình. Tháng 10-1934, Lucia khấn trọn và lấy tu danh là nữ tu Đức Mẹ Maria Sầu Bi.
Sau nhiều năm điều tra, Đức Giám Mục Da Silva, cai quản Giáo phận Leiria, trong thư mục vụ ngày 13.10.1930 đã công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em ở Fatima và chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima. Theo lệnh hàng giáo phẩm, Lucia đã viết các hồi ký về sự kiện trên gồm 4 bản: 1 bản năm 1935, 1 bản năm 1937, 1 bản năm 1941 và 1 bản đầu năm 1942. (wikipedia).
Năm 1946, nhân kỷ niệm 300 năm ngày dâng nước Bồ Đào Nha cho Đức Trinh Nữ Maria, vị sứ thần tòa thánh Vatican là Hồng Y Masella đã đội (vương miện) triều thiên lên tượng Đức Mẹ Fatima, với sự tham gia chứng kiến của khoảng 600.000 tín hữu hành hương. Vương miện này do các phụ nữ Bồ Đào Nha cung hiến để cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ Bồ Đào Nha trong cuộc thế chiến thứ nhất.
Từ năm 1948, Lucia vào tu trong đan viện dòng kín Carmêlô ở Coimbra (Bồ Đào Nha), dưới tên nữ tu Lucia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội. Lucia qua đời ngày 14-2-2005 ở tuổi 97. Thánh lễ an táng được cử hành vào ngày 16-2-2005 tại Vương cung thánh đường Coimra. Sau khi Lucia qua đời, đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Bộ Giáo Lý Đức Tin (sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI) cho niêm phong phòng của Lucia, có lẽ để điều tra trong tiến trình phong thánh cho Lucia.
3. Nhà Thờ Chúa Ba Ngôi Cực Thánh – Most Holy Trinity Church
Từ khách sạn, các khách hành hương sẽ đi qua quảng trường mênh mông. Đồng cỏ Cova da Iria ngày xưa nay trở thành quảng trường có tên Santuario. Đến Trung tâm mục vụ Centro Pastoral Paul VI với những lối đi bên hông. Trung tâm này cũng là ngôi Nhà thờ rất lớn có tên là Most Holy Trinity Church (tiếng Bồ Đào Nha là: Santissima Trindade). Có khi người ta gọi đây là Most Holy Trinity Church khi thì Paul VI Pastoral Centre.
Nhà thờ được ĐGH Bênêđictô XVI thánh hiến vào năm 2007, với chi phí 80 triệu Euro do khách hành hương dâng cúng. Viên đá đầu tiên được lấy từ mộ thánh Phêrô ở Roma.Trung tâm hay thánh đường là một tòa nhà hình khối tròn đường kính 125m, cao 18m, trần không có cột chống đỡ mà chỉ tựa vào 2 cây đà cực lớn nên trông rất rộng. Nội thất nhà thờ pha trộn kiểu đương đại, phục hưng và trung cổ, được chia làm hai ngăn bởi một bức tường di động cao 2m. Hướng dẫn viên cho biết Nhà thờ có 8,900 chỗ ngồi rộng thoải mái cùng với 76 chỗ cho người khuyết tật; cung thánh đủ chỗ cho100 vị đồng tế.
Cửa chính nhìn ra quảng trường là 4 tấm bằng đồng cao 8 mét, mỗi tấm nặng 3,200kg với những hình ảnh kể về công cuộc tạo dựng nên trời đất. Mái cổng vào là những tấm lưới sắt mô tả cảnh thiên thần ca hát mời gọi hãy đến thờ phượng Chúa khi khách hành hương tiến vào nhà thờ. Kiến trúc sư là người Chính thống giáo Hy Lạp nên nhiều kiến trúc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Byzantine và Orthodox. Tôi nhận xét thấy Nhà thờ này có nét kiến trúc hiện đại tương tự như các Nhà thờ mới ở Rotoldo và Lộ Đức.
Nổi bật trên cung thánh là Chúa Giêsu trên cây Thánh giá rất lạ.Nữ điêu khắc gia người Anh không phải là Kitô hữu đã kết hợp ý tưởng văn hóa nhiều châu lục. Khuôn mặt Chúa Giêsu mang dáng vẻ Á Châu, đôi tay dáng Châu Mỹ, đôi chân dáng Châu Phi, gót chân dáng Châu Đại Dương và thân mình dáng Châu Âu. Bên trái bàn thờ có tượng Đức Mẹ Fatima màu trắng thanh thoát. Nổi bật trên bức phong cung thánh rộng 50m cao 10m bằng gạch terracota màu vàng kim phía sau Thánh giá là Con Chiên Thiên Đàng, hai bên với bức tranh nghệ thuật mosaic mạ vàng. Bên trái Đức Maria cùng với Phanxicô và Lucia và đông đảo chư thánh. Bên phải là thánh Gioan Tẩy Giả cùng với 12 Tông Đồ. Bên trong Nhà thờ được xây theo lối nhà hát có độ dốc xuôi đổ về phía cung thánh, hệ thống loa âm thanh nắm ở dưới nền nhà, phía hai bên có những vị trí dành cho hệ thống truyền thông truyền hình trực tiếp.
Trung tâm Mục vụ Phaolô VI được Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II khánh thành ngày 13-05-1982. Đây là trung tâm nghiên cứu và suy tư về Sứ điệp Fatima. Trung tâm có sức chứa 2.000 người và cho 400 khách hành hương trọ, và cũng có nhiều văn phòng mục vụ, nhiều nhà nguyện nhỏ, nhiều phòng giải tội và bảo tàng bên trong.Từ Trung tâm Mục vụ này, người ta kẻ một đường sơn đặc biệt rộng khoảng gần 1 mét kéo dài cho tới Nhà nguyện và lễ đài ngoài trời dài khoảng 500 mét dùng để cho khách hành hương đi bằng đầu gối cầu nguyện và sám hối. Phía bên trái trung tâm này là cây Thánh giá nghệ thuật được dựng nên kỷ niệm kết thúc Năm thánh 1951.
Cửa chính của Trung tâm mục vụ Phaolô VI hay Nhà thờ Chúa Ba Ngôi nằm thẳng đường với mặt tiền Vương cung Thánh đường Mân Côi tạo thành một tổng thể kiến trúc rộng và hài hòa. Hai bên là những hàng cây lá xanh đậm tạo nên bức tường làm cho quảng trường thánh địa trở thành một khu vực biệt lập nhưng lại có thể dễ dàng ra vào ở mọi hướng. Hai bên quảng trường cũng có nhiều tượng các thánh, nhiều kiến trúc với những di tích và kỷ niệm các biến cố xã hội tôn giáo.
4. Nguyện đường Hiện ra – Chapel of Apparitions
Từ trung tâm mục vụ các khách hành hương sẽ đi đến Nguyện đường Hiện ra để dâng lễ chiều. Đây là một gian nhà nhỏ, mái phẳng, trần lộ thiên, hai bên bằng kính trắng, có nhiều cửa ra vào rộng rãi. Nhà nguyện rất đơn sơ không có khung cảnh đồ sộ hay mang nét huyền bí, nhưng đây lại là địa chỉ thật linh thiêng vì là nơi Đức Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ vào năm 1917.
Năm 1919, một nguyện đường nhỏ đã được xây tại đây. Đến ngày 13-10-1921, thánh lễ đầu tiên được cử hành tại nhà nguyện này. Đã có nhiều lần tu bổ, nhưng nguyện đường vẫn giữ hình dáng cũ cho đến ngày nay. Giữa nhà nguyện có bệ cao khoảng 1 mét đặt tượng Đức Mẹ Fatima đầu đội triều thiên bằng vàng nặng 1,2 kg, gắn 313 viên ngọc trai và 2.679 viên đá quý. Sau này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã gắn viên đạn đồng bắn vào ngài lên trên vương miện Đức Mẹ. Nguyện đường Hiện ra mở cửa suốt ngày đêm, chẳng thấy có an ninh canh gác, nhưng không một ai đến phá hoại hay trộm cắp những vật quý trên vương miện.
Bên trái nhà nguyện là những dãy nhà dành cho người hành hương đốt nến kính Đức Mẹ. Sát bên phải nhà nguyện có cây sồi xanh với tên gọi là Large “Azinheira” sống trên 100 năm. Cây dáng cổ thụ lá xanh thẫm. Chính ba trẻ chăn chiên đã nói rằng, trên cây này vào ngày 13-5-1917, các em thấy tia chớp sấm sét thứ hai xảy ra và sau đó Đức Mẹ hiện ra. Và cũng chính dưới tàn cây này mà ba trẻ cùng cầu nguyện với những người đi theo các em trong khi chờ Đức Mẹ hiện ra. Cây sồi này là cây duy nhất còn lại. Năm 2007, Bộ Tài nguyên Lâm sản Bồ Đào Nha đã xếp cây này vào loại “cây có giá trị công ích”.
5. Vương cung Thánh Đường Mân Côi- Basilica of Our Lady of Fatima.
Ba trẻ chăn chiên kể lại, Đức Mẹ hiện ra đã nói với các em: “Ta muốn xây nơi đây một nguyện đường để kính Ta, vì Ta là Đức Mẹ Mân Côi”. Vì vậy, thánh đường này còn được gọi là “Basilica of Our Lady of Rosary”. Kiến trúc sư Hòa Lan Gerardus van Krieken vẽ bản nháp và Kiến trúc sư Joao Antunes đã hoàn tất.
Ngày 13-5-1928, Đức Tổng giám mục Manuel Santos làm phép đặt viên đá đầu tiên. Nhà thờ được thánh hiến vào tháng 10 năm 1953. Năm 1954, Đức Giáo Hoàng Piô XII nâng lên hàng vương cung thánh đường.
Nhà thờ có nét kiến trúc tân cổ điển với một ngọn tháp trung tâm cao 65m. Mặt tiền có tượng Đức Mẹ Fatima cao 4,73m nặng 13.000kg nằm ở phần lõm mặt tiền Nhà thờ trên lối vào chính. Một linh mục Dòng Đaminh người Mỹ là Thomas Mc Glynn đã dành nhiều thời giờ nói chuyện với thị nhân là Sr Lucia khi Sr diễn tả cho ngài từng chi tiết Đức Maria đã nhìn như thế nào lúc Mẹ hiện ra. Bức tượng là tác phẩm hợp tác giữa thị nhân và nhà điêu khắc để miêu tả chính xác nhất Đức Mẹ Fatima. Bức tượng này là món quà của người Công Giáo Hoa kỳ gửi đến Đền thánh Fatima năm 1958.
Nhà thờ có chiều dài 70,5m, rộng 37m. Trên tháp chuông là một vương miện bằng đồng nặng 7.000kg bên trên đặt cây thánh giá có chất lân tinh ban đêm có thể thấy từ xa. Bộ chuông gồm 62 cái và chuông lớn nhất nặng 3.000kg, quả chuông nặng 90kg.
Mặt tiền hai bên có đến 200 cột nối liền với các Tu viện và các tòa nhà của bệnh viện. Trên các cột trụ có tượng 17 vị thánh. Những hàng cột tạo thành một vòng cung ôm trọn một bề ngang của quảng trường. Ở ngoài hành lang bên trái có vườn cỏ dựng hai bức tượng thạch cao của hai trẻ đang cầm tràng chuỗi là Phanxicô và Giacinta. Giữa hành lang và cổng chính của nhà thờ là một lễ đài có mái che dùng để cử hành thánh lễ ngoài trời giống như ở quảng trường Thánh Phêrô.
Bên trong Nhà thờ gồm một gian chính, hai gian ngang. Cung thánh được ngăn cách bởi một bao lơn rước lễ ngày xưa. Phía bên trái có tượng Đức Mẹ Fatima Thánh Du (Pilgrim Virgin of Fatima), được Giám mục của Leiria đặt làm giống hình ảnh Đức Mẹ mà Lucia mô tả và được Tổng Giám mục Evora làm phép trọng thể vào ngày 13-5-1947, và sau đó tượng được rước đi khắp thế giới trong đó có Miền Nam Việt Nam. Bức tượng này, sau khi thánh du mọi nơi, đến năm 2003 đã được đem về đặt trên một bệ đá bên trái bàn thờ chính.
Phía trước cung thánh, phía cánh ngang bên phải là mộ của Phanxicô chết năm 1919. Cũng như người em gái, thi hài Phanxicô được chôn ở nghĩa trang giáo xứ Fatima. Năm 1952, di hài hai em được cải táng và đem về chôn trong Nhà thờ. Phía bên trái có phần mộ của Lucia và Giaxinta. Giaxinta chết năm 1920 lúc mới 9 tuổi. Lucia chết ngày 13-2-2005, an nghĩ tại tu viện Carmêlô ở Coimbra, sau đó được cải táng và đem về chôn bên cạnh người em họ của mình vào ngày 19-2-2006.
Gần bàn thờ, có mộ Đức Cha José Alves Correia da Silva, Giám Mục tiên khởi của Giáo phận Leiria. Chính ngài đã mở cuộc điều tra và đến năm 1930 tuyên bố sự kiện Fatima là “đáng tin” và cho phép việc tôn sùng.
Có 15 bàn thờ dâng kính 15 mầu nhiệm Kinh Mân Côi. 14 bàn thờ nhỏ nằm hai bên hông của gian chính, mỗi bàn thờ có một bức phù điêu bằng đồng mô tả 14 mầu nhiệm của Chuỗi Mân Côi. Mầu nhiệm thứ 15 là một bức hình đắp nổi cao bằng đá Chúa Ba Ngôi đội vương miện cho Đức Mẹ nằm trên vòm của bàn thờ chính, do Maximiano Alves và Stella Albuquerque thực hiện, nặng 65.000kg.
Một cây đàn đại phong cầm được thiết kế vào năm 1952 với 12 ngàn ống ở trên cao phía sau mặt tiền Nhà thờ. Bốn tượng của 4 vị đại Tông đồ cổ võ Kinh Mân Côi và lòng sùng kính Đức Maria được đặt ở 4 góc Đền thờ. Đó là Thánh Antôn Maria Claret, Thánh Đaminh, Thánh Gioan Eudes và Thánh Stêphanô vua nước Hunggary.
Và còn rất nhiều tác phẩm đủ loại do nhiều nghệ nhân thực thiện để làm cho vương cung thánh đường thêm uy nghi. Đó là những kỷ vật có thể do một giáo xứ hay một cộng đồng địa phương hay ngoại quốc dâng tặng để kính Đức Mẹ.
6. Sứ điệp Fatima.
Đức Mẹ Maria hiện ra với ba trẻ chăn chiên với mục đích là mang sứ điệp hòa bình chân chính đến cho nhân loại. Ăn năn đền tội và cầu nguyện là điều kiện để bảo đảm cho nền hòa bình thế giới và sự bình an của mỗi tâm hồn.
Bên cạnh Vương cung Thánh đường, có một mảng lớn của bức tường Bá linh.Người ta gọi đó là “bức tường ô nhục” vì nó được xây nên để phân cách nước Đức,chia ra thành Đông Đức và Tây Đức, làm cho anh em một nhà phải xa nhau. Bức tường ấy đã bị phá đổ ngày 9-11-1989, và một mảng tường lớn có chiều dài chừng7m, chiều rộng chừng 2,2m được đưa về đây, như một lời tạ ơn Đức Mẹ và như lời mời gọi, hãy phá bỏ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, các quốc gia, xây dựng và củng cố nền hòa bình đích thực.
Tháng 10 năm 1930, Ðức Cha Dom José Alves Correia, Giám Mục giáo phận Leiria, công nhận biến cố Mẹ hiện ra tại Fatima, và ban phép sùng kính Mẹ Fatima. Thôn làng nhỏ bé Fatima đã trở nên trung tâm hành hương thế giới. Khách thập phương tề tựu về bên Mẹ cầu khẩn, tạ ơn, xin ơn. Fatima trở thành động lực thúc đẩy mọi người hưởng ứng lời Mẹ nhắn nhủ: cầu nguyện và hy sinh cho tội nhân được ơn trở lại, nhất là nguyện cầu cho thế giới được hòa bình.
Sứ điệp hòa bình của Fatima rất hòa hợp với sứ điệp hòa bình của Phúc Âm. Hòa bình thật khẩn thiết và quan trọng biết bao cho cuộc sống nhân loại! Mọi người đều mong muốn hòa bình, khát khao được sống trong hòa bình. Mẹ Maria ban cho nhân loại một nền hòa bình chân chính và bền vững. Muốn được hưởng nền hòa bình đích thực ấy, nhân loại cần phải thực hiện những điều kiện hữu lý và hoàn toàn khả thi mà Đức Mẹ đưa ra, đó là:
– Sám hối ăn năn và cải thiện đời sống. Xưng tội rước lễ các ngày Thứ Bảy đầu tháng.
– Siêng năng cầu nguyện, hy sinh hãm mình đền tội và lần Chuỗi Mân Côi.
– Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Sự kiện Fatima đã qua đi trọn vẹn trong năm 1917, cách đây đã 98 năm. Sứ điệp Fatima như lời mời gọi của Đức Mẹ bùng lên mãnh liệt khắp mọi miền trên thế giới. Sứ điệp Fatima, với lời kêu mời khẩn thiết để hoán cải và đền tội đã lôi kéo con người tới trọng tâm của Tin Mừng. Fatima chắc chắn là cuộc hiện ra mang tính chất tiên tri nhất trong thời hiện đại.
Mẹ Fatima là Mẹ Mân Côi. Mân Côi chính là hoa hồng. Mân Côi là bông hồng đẹp, viên ngọc quí. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Bằng cuộc sống hàng ngày, người tín hữu kết dệt nên những bông hoa thiêng liêng dâng kính Mẹ. Với ơn Mẹ, cuộc sống mọi người sẽ toả hương khoe sắc nhân đức và mang đến cho đời hòa bình và bình an. Xin Mẹ chúc lành cho đời sống chúng con.
(Theo tài liệu của lm. Nguyễn Hữu An)
Theo: VietCatholic Network