Bí tích Hôn Phối diễn ra qua lời hứa lập bởi một người nam và một người nữ trước Thiên Chúa và Hội Thánh.
Câu 261 Bí tích Hôn Phối diễn ra như thế nào?
Bí tích Hôn Phối diễn ra qua lời hứa lập bởi một người nam và một người nữ trước Thiên Chúa và Hội Thánh, lời hứa này được Thiên Chúa chấp nhận, thêm sức và được hoàn tất trong sự kết hợp thân xác giữa đôi vợ chồng. Bởi vì chính Thiên Chúa hình thành mối liên kết hôn nhân mang tính bí tích, mối liên kết này ràng buộc cho đến khi một trong hai người chết. [1601-1605]
Người nam và người nữ cùng là thừa tác viên bí tích Hôn Phối. Linh mục hoặc vị phó tế cầu xin Thiên Chúa ban phúc lành trên cặp hôn phối và hơn nữa, còn làm chứng rằng hôn nhân diễn ra hợp thức, lời hứa bao quát và được lập công khai. Hôn nhân chỉ có thể diễn ra nếu có sự ưng thuận kết hôn, nghĩa là, người nam và người nữ bước vào hôn nhân bằng ý chí tự do của mình, không vì sợ hãi hoặc cưỡng bức, và nếu cả hai không bị ngăn trở kết hôn vì những dây ràng buộc tự nhiên khác hoặc ràng buộc với Hội Thánh (chẳng hạn như một hôn nhân đang hiện hữu, một lời khấn độc thân).
Tertulian (160-sau 220, tác giả La Tinh của Hội Thánh) nói: “Làm thế nào tôi có thể diễn tả được hạnh phúc của một hôn nhân được Hội Thánh kết hợp…? Mối liên kết giữa hai tín hữu thật tuyệt vời biết bao, giờ đây là một mối liên kết trong hy vọng, trong ước muốn, trong kỷ luật, trong cùng một phụng vụ… không phân chia về tinh thần và thể xác, quả thật là cả hai người trong một xương một thịt. Khi thân xác là một, tinh thần cũng là một”.
Câu 261 trong YouCat được soạn thảo từ các câu 1625-1631 của Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dưới đây:
1625 "Do hôn ước, người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sống chung suốt đời, tự bản tính hôn ước hướng về thiện ích của đôi vợ chồng và việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Ðức Ki-tô đã nâng hôn ước giữa những người đã chịu phép Thánh Tẩy lên hàng bí tích" (x. Giáo Luật, Điều 1055.1).
Người ký kết giao ước hôn nhân phải là một người nam và một người nữ đã rửa tội, tự do để kết hôn và công khai bày tỏ sự ưng thuận kết hôn. "Tự do" nghĩa là:
– không bị ép buộc;
– không bị ngăn trở theo luật tự nhiên hay giáo luật
1626 Hội Thánh coi việc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết "làm nên hôn nhân" (x. GL Điều 1057.1). Thiếu sự ưng thuận này thì không có hôn nhân.
1627 Sự ưng thuận là "hành vi nhân linh, trong đó đôi vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau" (x. GS 48,1); (x. GL Điều 1057.2): "Anh nhận em làm vợ"; "Em nhận anh làm chồng" (x. OcM 45). Sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau, được thể hiện trọn vẹn khi hai người "trở nên một thân thể" (x. St 2, 24; Mc 10, 8; Ep 5,31).
1628 Sự ưng thuận phải là hành vi ý chí của mỗi người phối ngẫu, không bị cưỡng bức vì bạo lực hay quá sợ hãi do một nguyên cớ ngoại tại (x. GL Điều 1103). Không có thế lực nhân loại nào có thể thay thế sự ưng thuận này (x. GL Điều 1057.1) . Thiếu sự tự do, hôn nhân không thành.
1629 Vì lý do này (hay những lý do khác làm cho hôn nhân trở nên vô hiệu (x. GL Điều 1095-1107), sau khi nhờ toà án xét duyệt hoàn cảnh đầy đủ, Hội Thánh có thể tuyên bố một hôn nhân nào đó là "vô hiệu", nghĩa là hôn nhân ấy trước đó đã không thành sự. Trong trường hợp này, hai người được tự do ký kết một hôn ước khác, dù vậy họ vẫn phải giữ những nghĩa vụ tự nhiên xuất phát từ dây ràng buộc trước (x. GL Điều 1071).
1630 Linh mục (hay phó tế), chứng giám nghi thức Hôn Phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi hôn phối và chúc lành cho họ. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh (và của những người làm chứng), cho thấy rõ ràng hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh.
1631 Vì lý do này, Hội Thánh thường đòi buộc các tín hữu phải kết hôn theo thể thức của Hội Thánh (x. CÐ Trentô: DS 1813-1816; GL Điều 1108). Qui định này có những lý do sau:
– hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, có những nghĩa vụ và quyền lợi giữa đôi vợ chồng và đối với con cái;
– bí tích Hôn Phối là một hành vi phụng vụ. Do đó, nên cử hành trong nghi thức phụng vụ công khai của Hội Thánh;
– vì hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, nên phải có sự chắc chắn (vì thế buộc phải có những người làm chứng);
– việc công khai bày tỏ sự ưng thuận bảo vệ lời cam kết và giúp vợ chồng sống chung thủy.
Thư Đan