Tháng 2 là Mùa Thường Niên trước Mùa Chay. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về đức tin Kitô giáo, nhấn mạnh hơn về phía con người.
Tháng 2/2013
Tháng 2 là Mùa Thường Niên trước Mùa Chay. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về đức tin Kitô giáo, nhấn mạnh hơn về phía con người. Chủ đề của tháng này là: TIN LÀ THƯA “VÂNG” VỚI LỜI CHÚA.
Chúng ta sẽ tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ:
Tuần 1: Sự vâng phục của đức tin.
Tuần 2: Nội dung đức tin.
Tuần 3: Đức tin và lý trí.
Tuần 4: Đức tin và tự do.
TUẦN 1
SỰ VÂNG PHỤC CỦA ĐỨC TIN
Khai triển nội dung
1. Lịch sử Dân Chúa trong Cựu Ước bắt đầu với việc Thiên Chúa kêu gọi tổ phụ Abraham. Ông đã vâng theo tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và “ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Nhờ đức tin, bà Sara vợ ông đã thụ thai người con của lời hứa khi tuổi đã già. Cuối cùng, nhờ đức tin, tổ phụ Abraham đã dâng hiến con mình làm hy lễ. Ông đã trở nên “tổ phụ của tất cả những người tin” (Rm 4,11). Cùng với tổ phụ Abraham, trong Cựu Ước có rất nhiều những chứng từ đức tin: “Nhờ đức tin ấy, các bậc tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11,2.39).
2. Trong Tân Ước, Đức Maria là gương mẫu tuyệt vời. Nhờ đức tin, Mẹ đã đón nhận lời sứ thần Gabriel loan báo và đoan hứa, vì ngài tin rằng “Đối với Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Bà Elisabeth đã chào Đức Mẹ bằng những lời này: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Trong suốt cuộc đời của Đức Mẹ, kể cả trong những thử thách lơn lao nhất, đức tin của Mẹ không hề lay chuyển. Mẹ luôn vững tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện. Chính vì đức tin ấy mà Đức Mẹ được mọi đời ca ngợi là diễm phúc, và Hội Thánh tôn kính Mẹ là người thể hiện đức tin cách tinh tuyền nhất.
3. Chiêm ngắm tổ phụ Abraham và Mẹ Maria, chúng ta hiểu được thế nào là sự vâng phục của đức tin. Đó là sự tự nguyện quy thuận lời Chúa phán, vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân lý, bảo đảm: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hi vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Trong Thánh Kinh, ai là những chứng nhân chính yếu cho việc vâng phục đức tin?
Thưa: Có nhiều chứng nhân, nhưng đặc biệt là hai vị:
Hỏi : Vâng phục đức tin là gì?
Thưa: Vâng phục đức tin là tin tưởng trọn vẹn vào Thiên Chúa và đón nhận chân lý của Ngài, chân lý được Thiên Chúa bảo đảm vì Ngài là chính Chân lý (số 25).
Ý cầu nguyện:
Xin Mẹ Maria dạy chúng con hai tiếng “Xin Vâng” trước thánh ý Chúa và trong mọi hoàn cảnh.
TUẦN 2
NỘI DUNG ĐỨC TIN
Khai triển nội dung
1. Đức tin Kitô giáo bao hàm hai điều chính yếu : một là gắn bó hoàn toàn với Thiên Chúa, hai là chấp nhận tất cả những chân lý được Thiên Chúa mặc khải. Hai điều này liên kết chặt chẽ với nhau. Cũng vì thế, đức tin Kitô giáo khác với sự tin tưởng một người hoặc một hệ ý thức nào đó. Không ai và không tổ chức nào trong cuộc đời này có thể đòi hỏi nơi chúng ta sự tin tưởng tuyệt đối, vì bất cứ con người nào và tổ chức nào cũng chỉ là bất toàn, đầy giới hạn. Chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng thượng trí và Tình yêu mới có thể đòi hỏi nơi chúng ta sự gắn bó và tin tưởng tuyệt đối như thế.
2. Đối với chúng ta, tin vào Thiên Chúa cũng có nghĩa là tin vào Chúa Giêsu Kitô. Người là Con chí ái của Chúa Cha, là Đấng Chúa Cha sai đến. Người chính là Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Bởi vì Người “đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46) nên chỉ một mình Người biết Chúa Cha và có thẩm quyền mặc khải Chúa Cha cho chúng ta. “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Không có Chúa Giêsu, chúng ta có thể rơi vào nguy cơ thờ phượng một vị Thiên Chúa theo trí tưởng tượng của loài người chứ không phải là Thiên Chúa chân thật và hằng sống.
3. Chúng ta không thể tin vào Chúa Giêsu Kitô mà không thông phần vào Thần Khí của Người. Chính Chúa Thánh Thần mặc khải cho loài người biết Chúa Giêsu là ai: “Không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12,3). Thật vậy, ai có thể biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa? (1Cr 2,10-11). Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể biết trọn vẹn về Ngài. Chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần vì Ngài là Thiên Chúa.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Tin vào Thiên Chúa nghĩa là gì?
Thưa: Là gắn bó với chính Thiên Chúa, tin tưởng phó thác bản thân chúng ta cho Chúa, và chấp nhận tất cả những chân lý Ngài mặc khải, vì Ngài là chính Chân lý (số 27).
Hỏi: Mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo là gì?
Thưa: Mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống Kitô giáo là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh. Người Kitô hữu chúng ta được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (số 44).
Ý cầu nguyện:
Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
TUẦN 3
ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ
Khai triển nội dung
1. Nền tảng của đức tin Kitô giáo là uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng mặc khải, Đấng không thể sai lầm và cũng không thể lừa dối chúng ta. Tuy nhiên, để nâng đỡ đức tin của chúng ta, Thiên Chúa cũng ban cho những bằng chứng bên ngoài về mặc khải của Ngài. Chẳng hạn, các phép lạ của Đức Kitô và các thánh, các lời tiên tri, sự phát triển và thánh thiện cũng như sự phong phú và vững bền của Hội Thánh…tất cả là những dấu chỉ chắc chắn của mặc khải và lý trí con người có thể tiếp nhận.
2. Những chân lý mặc khải có thể bị coi là tối tăm đối với lý trí cũng như kinh nghiệm của loài người. Chẳng hạn, làm sao một trinh nữ lại có thể thụ thai và sinh con? Làm sao một con người chịu đóng đinh trên thập giá lại có thể là Đấng Cứu độ? Những câu hỏi tương tự khiến con người cảm thấy nghi nan. Thế nhưng đức tin lại chắc chắn hơn mọi hiểu biết của loài người, vì lý trí con người có nhiều giới hạn, còn đức tin dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng toàn năng và toàn tri: Trời đất này sẽ qua đi nhưng lời Thầy nói với anh em sẽ không qua đi. Cũng vì thế, gắn liền với đức tin là việc các tín hữu muốn biết rõ hơn và sâu hơn về Đấng mình tin và những điều Ngài mặc khải. Một đàng, ơn đức tin mở “con mắt của trái tim” (Eph 1,18) để chúng ta hiểu biết Chúa hơn; đàng khác, sự hiểu biết sâu xa sẽ giúp chúng ta tin tưởng và yêu mến Chúa hơn.
3. Trong tương quan giữa đức tin và khoa học, Hội Thánh nhấn mạnh rằng không thể có sự mâu thuẫn giữa đức tin và lý trí, bởi lẽ cả hai đều chung một cội nguồn là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng mặc khải các mầu nhiệm và tuôn đổ đức tin, cũng chính Ngài là Đấng ban ánh sáng lý trí cho tâm hồn con người. Do đó, không thể có mâu thuẫn giữa đức tin và lý trí, giữa những chân lý mặc khải và nghiên cứu khoa học, nếu những nghiên cứu ấy được tiến hành cách khoa học thật sự và theo đúng các chuẩn mực luân lý.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Đức tin có liên quan gì đến lý trí tự nhiên?
Thưa: Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, được lòng muốn thúc đẩy do tác động của Thiên Chúa, để tự do chấp nhận chân lý Thiên Chúa (số 28).
Hỏi: Tại sao không có mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học ?
Thưa: Dù đức tin vượt lên trên lý trí, nhưng không bao giờ có mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học, vì cả hai đều có cùng một cội nguồn là chính Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ban ánh sáng lý trí và ban đức tin cho con người.
Ý cầu nguyện:
Xin cho những ai tìm kiếm Chúa được gặp Chúa. Xin cho những người đã gặp Chúa vẫn tiếp tục tìm kiếm Chúa và yêu mến Chúa hơn.
TUẦN 4
ĐỨC TIN VÀ TỰ DO
Khai triển nội dung
1. Tự do là khả năng tự mình làm những hành động có ý thức, tự mình chọn lựa hành động hay không hành động, làm việc này hoặc làm việc khác. Tự do là nét đặc trưng cao cả của con người, nhờ đó chúng ta phát triển và trưởng thành trong chân lý và sự thiện. Cũng vì có tự do, nên con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình, tùy theo mức độ các hành vi ấy phát xuất từ ý muốn của họ như thế nào. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa là vinh phúc của chúng ta.
2. Ân sủng của Thiên Chúa ban không hủy diệt tự do nơi chúng ta. Đúng hơn, ân sủng ấy nâng đỡ để chúng ta sử dụng tự do cho phù hợp với ý nghĩa của Sự Thật và Sự Thiện mà Thiên Chúa đã đặt để nơi trái tim con người. Chính Sự Thật và Sự Thiện này giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta nên những con người tự do đích thực. Bằng tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần giáo dục chúng ta về sự tự do thiêng liêng, thúc đẩy chúng ta tự nguyện cộng tác vào công trình của Ngài trong Hội Thánh và trong thế giới: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17). Đức Maria và các thánh là những mẫu gương cụ thể về mối tương quan hài hòa tuyệt hảo giữa ân sủng Thiên Chúa và tự do của con người.
3. Đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là hành vi của con người có lý trí và tự do. Do đó, đức tin và tự do gắn bó chặt chẽ với nhau: “Không được cưỡng bách bất cứ ai hành động trái với lương tâm, cũng như không được ngăn cấm họ hành động theo tiếng lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn giáo” (Tuyên ngôn về Tự Do, số 3). Chúa Giêsu là mẫu mực điển hình cho mọi người noi theo. Người đến để làm chứng cho chân lý nhưng không bao giờ Người dùng sức mạnh để áp đặt chân lý. Vương quốc của Người tăng trưởng bằng tình yêu, tình yêu của Đấng đã chịu giương cao trên thập giá để lôi kéo người ta đến với mình.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Tự do là gì?
Thưa: Tự do là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để hành động hay không hành động, để làm việc này hay việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức (số 363).
Hỏi: Đức tin giúp gì cho sự tự do của con người?
Thưa: Càng làm điều thiện, người ta càng tự do hơn. Tự do hướng đến sự hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, Đấng là Sự Thiện tối thượng và là hạnh phúc của chúng ta (số 363).
Ý cầu nguyện:
Cầu cho những anh chị em thuộc mọi tôn giáo đang chịu bắt bớ và bách hại vì niềm tin tôn giáo của họ.