Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Vì thế chủ đề giáo lý của tháng 3/2013 là : TIN LÀ THEO CHÚA GIÊSU KITÔ TRONG MẦU NHIỆM KHỔ NẠN CỦA NGƯỜI.
Tháng 3/2013
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Vì thế chủ đề giáo lý của tháng 3/2013 là : TIN LÀ THEO CHÚA GIÊSU KITÔ TRONG MẦU NHIỆM KHỔ NẠN CỦA NGƯỜI.
Chúng ta cùng tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ :
Tuần 1: Vụ án Chúa Giêsu.
Tuần 2: Chúa Giêsu Kitô, Đấng xóa tội trần gian.
Tuần 3: Hy tế tình yêu của Chúa.
Tuần 4: Hãy làm hòa cùng Thiên Chúa
(Bí tích Giao Hòa).
TUẦN 1
VỤ ÁN CHÚA GIÊSU
Khai triển nội dung
1. Các nhà cầm quyền tôn giáo ở Giêrusalem đã không nhất trí với nhau về cách xử sự đối với Chúa Giêsu. Nhóm Pharisêu dọa khai trừ những ai đi theo Chúa. Có những người sợ rằng “mọi người sẽ tin vào ông Giêsu, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta” (Ga 11,48). Thượng tế Caipha đưa ra đề nghị: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50). Thượng Hội Đồng tuyên bố Chúa Giêsu đáng phải chết vì tội nói phạm thượng, nhưng vì đã mất quyền tuyên án tử hình, nên họ đã nộp Chúa Giêsu cho người Rôma và tố cáo Người về tội nổi loạn chính trị. Vì thế Chúa Giêsu bị xếp đồng hàng với Baraba là người bị tống ngục vì một vụ bạo động (Lc 23,19). Các thượng tế cũng đưa ra những lời đe dọa mang tính chính trị để buộc quan Philatô kết án tử hình Chúa Giêsu.
2. Chúng ta không thể quy trách nhiệm cho mọi người Do Thái ở Giêrusalem lúc đó, càng không được mở rộng trách nhiệm đến những người Do Thái ở những nơi chốn và thời đại khác. Công Đồng Vaticanô II khẳng định rất rõ điều này: “Không thể nói rằng Thiên Chúa đã loại bỏ người Do Thái hoặc đã chúc dữ cho họ, coi đó như là điều được dạy trong Thánh Kinh” (Tuyên ngôn Nostra Aetate, số 4).
3. Khi suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô, Hội Thánh luôn nhắc nhở điều này: Các tội nhân là những tác giả và tác viên của mọi cực hình mà Đức Kitô đã phải chịu. Thánh Phanxicô Assisi kêu lên: “Ma quỷ cũng không đóng đinh Người vào thập giá, nhưng chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Người, và bạn vẫn còn đóng đinh Người bằng cách hưởng lạc thú trong các nết xấu và tội lỗi”.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Chúa Giêsu bị kết án vì những lời tố cáo nào?
Thưa: Một số thủ lãnh Israel đã tố cáo Chúa Giêsu chống lại Lề luật, chống lại Đền thờ Giêrusalem và nhất là chống lại niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, vì Người tự xưng mình là Con Thiên Chúa. Chính vì thế, họ đã nộp Người cho quan Philatô, để Người bị kết án tử hình (số 113).
Hỏi: Ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Thưa: Không thể quy trách nhiệm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu một cách không phân biệt cho mọi người Do thái thời đó, cũng như con cháu họ sau này. Mỗi tội nhân, nghĩa là mọi người, thực sự là nguyên nhân và công cụ gây nên những đau khổ của Đấng Cứu Chuộc. Chịu trách nhiệm nặng nề hơn nữa là những người, nhất là các Kitô hữu, thường xuyên sa ngã phạm tội và ham thích những thói xấu (số 117).
Ý cầu nguyện:
Cầu cho mọi Kitô hữu biết “mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và không chiều theo tính xác thịt” (Rm 13,14).
TUẦN 2
ĐỨC GIÊSU KITÔ,
ĐẤNG XÓA TỘI TRẦN GIAN
Khai triển nội dung
1. “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh” (1Cr 15,3). Thánh Phaolô tuyên xưng như thế, và ngài cho biết đó là lời tuyên xưng ngài đã “lãnh nhận” chứ không phải tự mình sáng chế. Thánh nhân còn viết thêm: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cr 5,21). Sự chết của Đức Kitô mang lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Sự chết ấy hoàn thành cách đặc biệt lời tiên tri về Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Isaia mà chúng ta nghe vào Thứ Sáu Tuần Thánh hằng năm (53,7-8). Người Tôi Tớ ấy chịu đánh đập vì chúng ta, mang thương tích vì chúng ta. Nhờ Người mà chúng ta được chữa lành.
2. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (Ga 1,29,36). Chúa Giêsu vừa là Người Tôi Tớ đau khổ, mang lấy tội lỗi muôn người, vừa là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc cứu chuộc Israel trong cuộc Vượt Qua đầu tiên (Xh 12,3-14). Cả cuộc đời Đức Kitô diễn tả sứ vụ của Người : phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10,45).
3. Sự chết của Chúa Giêsu bày tỏ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8); “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Tình yêu ấy không loại trừ một ai như chính Chúa Giêsu khẳng định: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Vì thế Hội Thánh dạy rằng: “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Đức Kitô không chịu khổ nạn cho họ”.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Tại sao cái chết của Chúa Giêsu lại nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa?
Thưa: Để tất cả mọi người, là những kẻ đáng chết vì tội lỗi, được giao hòa với Ngài, Thiên Chúa đã khởi xướng một việc đầy yêu thương là sai Con của Ngài đến phó mình chịu chết vì những kẻ tội lỗi (số 118).
Hỏi: Cái chết của Chúa Giêsu đã được loan báo như thế nào?
Thưa: Cái chết của Chúa Giêsu đã được loan báo trong Cựu Ước, đặc biệt như hy tế của Người Tôi trung đau khổ, và cái chết ấy đã xảy ra “theo như lời Thánh Kinh” (số 118).
Ý cầu nguyện:
Xin ơn nhận biết tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, để tình yêu ấy biến đổi chúng ta.
TUẦN 3
HY TẾ CỦA CHÚA GIÊSU
Khai triển nội dung
1. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là của lễ dâng hiến Chúa Cha. Ngay từ phút đầu tiên Người nhập thể, Chúa Con đã gắn bó với kế hoạch cứu độ của Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, này con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5); “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Sự gắn bó với kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha đã truyền cảm hứng cho cả cuộc đời của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27); “Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (Ga 18,11).
2. Khi gắn bó với tình yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại, Chúa Giêsu đã “yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), vì “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nhân tính của Chúa Giêsu đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo của tình yêu thần linh nơi Người, một tình yêu mong muốn cứu độ mọi người. Nghĩa là Chúa Giêsu hoàn toàn tự do khi chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết, vì tình yêu đối với Chúa Cha và vì tình yêu đối với nhân loại mà Người muốn cứu độ (x.Ga 10,18).
3. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thực hiện trước việc tự nguyện dâng hiến mạng sống của Người: “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19); “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu thiết lập lúc đó sẽ là việc tưởng niệm hy tế của Người, đồng thời Người dạy các Tông Đồ phải lưu truyền việc dâng hiến này mãi mãi: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Đức Kitô đã dâng hiến chính mình cho Chúa Cha như thế nào?
Thưa: Đức Kitô đã tự do dâng hiến tất cả đời sống cho Chúa Cha, để chu toàn ý định cứu độ của Ngài. Đức Kitô đã “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45) (số 119).
Hỏi: Việc dâng hiến của Chúa Giêsu được diễn tả như thế nào trong Bữa Tiệc Ly?
Thưa: Trong Bữa Tiệc Ly với các Tông đồ vào buổi tối trước cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu vừa thiết lập bí tích Thánh Thể như việc tưởng nhớ hy tế của Chúa, vừa đặt các Tông đồ làm tư tế của Giao Ước mới (số 120).
Ý cầu nguyện:
Xin ơn biết kết hợp những đau khổ và hi sinh trong cuộc sống với hy tế của Chúa Giêsu trên thánh giá.
TUẦN 4
HÃY LÀM HÒA CÙNG THIÊN CHÚA
Khai triển nội dung
1. Chúa Giêsu kêu gọi hối cải: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Lời kêu gọi này trước hết hướng đến những người chưa biết Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Cho nên bí tích Rửa Tội chiếm vị trí đầu tiên và căn bản của việc hối cải. Tuy nhiên lời kêu gọi hối cải vẫn tiếp tục vang lên trong đời sống Kitô hữu, gọi là cuộc hối cải thứ hai. Thánh Ambrôsiô diễn tả cách cụ thể như sau: “Hội Thánh có nước và nước mắt, nước của bí tích Rửa Tội, và nước mắt của bí tích Giao Hòa”. Nỗ lực hối cải này không chỉ là việc của con người, nhưng đúng hơn là hành động của một “tâm hồn tan nát” được ân sủng thúc đẩy để đáp lại tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước.
2. Có thể chiêm ngắm cuộc hối cải của thánh Phêrô sau khi chối Thầy ba lần, để thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc hối cải thứ hai này. Cái nhìn của Chúa Giêsu, cái nhìn tràn ngập lòng thương xót của Chúa đã khiến Phêrô ăn năn khóc lóc. Sau khi Chúa sống lại, thánh nhân đã ba lần tuyên xưng tình yêu của ông đối với Người (Ga 21,15-17). Cuộc hối cải thứ hai cũng mang chiều kích cộng đoàn : toàn thể Hội Thánh được mời gọi “hãy hối cải” (Kh 2,5.16).
3. Đức Kitô đã thiết lập bí tích Giao Hòa (bí tích Giải Tội, Thống Hối) cho tất cả các chi thể trong Hội Thánh của Người. Sau khi chịu Phép Rửa, chúng ta vẫn có thể phạm tội trọng, và như thế, đánh mất ân sủng Phép Rửa và làm tổn thương đến sự hiệp thông của Hội Thánh. Bí tích Giao Hòa ban cho chúng ta cơ hội mới để hối cải và tìm lại được ơn công chính hóa. Bí tích này gồm hai yếu tố chính: một là sự hối cải của con người dưới tác động của Chúa Thánh Thần: thống hối, thú tội, đền tội; hai là hành động tha thứ của Thiên Chúa qua sự can thiệp của Hội Thánh. Nội dung này được trình bày cách đầy đủ trong công thức giải tội.
Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)
Hỏi: Những người đã chịu Phép Rửa có cần phải hối cải không?
Thưa: Lời kêu gọi hối cải của Đức Kitô luôn vang vọng trong đời sống những người đã lãnh bí tích Rửa Tội. Việc hối cải này là cuộc chiến đấu liên tục của toàn thể Hội Thánh, vì tuy Hội Thánh có đặc điểm là thánh thiện nhưng lại bao gồm những tội nhân (số 299).
Hỏi: Hối nhân phải có những hành vi nào khi lãnh bí tích Giao Hòa?
Thưa: Những việc hối nhân phải làm là : xét mình cẩn thận, ăn năn tội cùng với quyết tâm không tái phạm nữa, xưng tội và làm việc đền tội (số 303).
Ý cầu nguyện:
Cho mọi Kitô hữu được ơn khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và trở về với Chúa.