Một số danh từ chuyên môn nhà đạo

Một số danh từ chuyên môn nhà đạo

Tài liệu tham khảo - Feb 05/02/2016

nha-tho-duc-ba-2919-14339318291. Nhà thờ (F: église, E: church; L: ecclesia)

Trong những thế kỷ đầu, Giáo hội chưa có Nhà thờ, giáo hữu thường tụ họp trong các tư gia, dưới các hang toại đạo để cầu nguyện và cử hành các Bí tích. Danh từ Nhà thờ khi đó được dùng để chỉ cộng đoàn được tụ họp để cử hành Phụng vụ. Đến khi đế quốc Rôma cho tự do tôn giá vào thế kỷ 4, việc xây cất Nhà thờ mới được đặt ra. Các toà nhà được xây cất hoặc được dâng hiến để dùng vào việc thờ phượng Chúa, được gọi là Nhà thờ.

Nhà thờ ngày nay là biểu tượng của Giáo hội (chữ église, church, ecclesia viết thường có nghĩa là Nhà thờ, viết hoa có nghĩa là Giáo hội). Nơi đó, dân Chúa tập họp để nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, cử hành Thánh lễ.

Trước khi sử dụng một ngôi Nhà thờ mới, phải thánh hiến hoặc phải làm phép Nhà thờ đó. Theo Bộ Giáo Luật (GL) khoản 1217, 2 phải cung hiến Nhà thờ Chính toà và Nhà thờ Giáo xứ.

Khi cung hiến, Nhà thờ phải chọn một tước hiệu về Chúa, về Mẹ Maria hoặc về một vị thánh, ví dụ tước hiệu của Nhà thờ Phủ Cam là Đức Mẹ Ban Ơn. Tước hiệu này có thể là bổn mạng Giáo xứ, nhưng cũng có thể chọn một tước hiệu khác với bổn mạng Giáo xứ, ví dụ bổn mạng của Nhà thờ Phủ Cam là hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tuy nhiên, không được lấy tên một chân phước làm tước hiệu Nhà thờ.

Theo GL 1271, 1 đối với Nhà thờ họ nhánh, Nhà thờ tu viện, Nhà thờ của trung tâm hành hương, thì không buộc phải cung hiến, nhưng chỉ cần làm phép.
Khi Nhà thờ đã được cung hiến, thì hằng năm, ngày giáp lễ cung hiến Nhà thờ đó phải là ngày lễ trọng đối với Giáo xứ đó.

Trong mỗi Giáo phận có thể có 5 loại Nhà thờ:

1/- Nhà thờ Chính tòa (F: Cathédrale; E: Cathedral; L: Cathedralis ecclesia) :
Là Nhà thờ chính của Giáo phận, là nơi đặt ngai tòa của Giám mục Giáo phận. Mỗi Giáo phận chỉ có một Nhà thờ Chính tòa và phải được coi là trung tâm đời sống phụng vụ của Giáo phận. Nhà thờ Chính tòa phải được cung hiến cách trọng thể.

2/- Nhà thờ Giáo xứ (F: église paroissiale; E: church; L: ecclesia):
Là Nhà thờ chính của một Giáo xứ. Mỗi Giáo xứ chỉ có một Nhà thờ chính, các Nhà thờ khác phải được coi là Nhà thờ họ nhánh (hoặc Nhà thờ giáo họ). Nhà thờ Giáo xứ phải được cung hiến cách trọng thể.

3/- Thánh điện (F: Sanctuaire; E: Sanctuary; L: Sacrarium) :
Là Nhà thờ gắn liền với một Trung tâm hành hương.

Có 3 loại Thánh điện:
– Thánh điện cấp Giáo phận: do Giám mục Giáo phận xác định quy chế.
– Thánh điện cấp Quốc gia: do Hội đồng Giám mục xác định quy chế.
– Thánh điện cấp Quốc tế: do Toà Thánh xác định quy chế.

4/-Nhà nguyện (F: Chapelle; E: Chapel; L: Sacellum):
Là Nhà thờ của một tu viện hay của một trung tâm tĩnh tâm. Nhà nguyện không thuộc cơ sở Giáo xứ, nhưng được Giám mục Giáo phận cho phép để một cộng đoàn hay một nhóm người nào đó cử hành Phụng vụ hay cầu nguyện.

5/- Phòng nguyện (F: Oratoire; E: Oratory; L: Oratorium):
Thông thường là một căn phòng nhỏ, có Bàn thờ và có thể có Nhà Tạm Mình Thánh Chúa. Nơi đó, linh mục có thể làm lễ hoặc một cộng đoàn tu sĩ nhỏ cầu nguyện, chầu Mình Thánh Chúa. Khi dùng một căn phòng làm Phòng nguyện thì luôn luôn phải có phép Giám mục Giáo phận (x. GL 1226).

Trên thế giới, Toà Thánh cũng ban danh tước cho một số Nhà thờ đóng vai trò quan trọng trong một quốc gia hay trong toàn thể Giáo hội.

Có 2 danh tước:

– Tiểu Vương Cung Thánh Đường (F: Basilique; E: Basilica; L: Basilica)
Danh tước này được ban cho một số Nhà thờ đặc biệt tại các Trung tâm hành hương, như Vương Cung Thánh Đường Lộ Đức, Lisieux, Montmartre ở Pháp; Vương Cung Thánh Đường La Vang, Sài Gòn ở Việt Nam.

– Đại Vương Cung Thánh Đường

Danh tước này chỉ được ban cho 4 Nhà thờ ở Rôma:
– Đền thờ Latêranô.
– Đền thờ Thánh Phêrô.
– Đền thờ Đức Bà Cả.
– Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

THÁNH GIÁ (F: Croix; E: Cross; L: Crux)

Chúa Giêsu dùng Thánh giá để thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại, nên người Kitô hữu tôn kính Thánh giá cách đặc biệt và gắn Thánh giá ở nhiều nơi. Thánh giá được gắn trên tháp Nhà thờ, trên Cung thánh, trên các tường Nhà thờ đã được cung hiến, trên cổng Nhà thờ, được đeo trên ngực Giám mục và Viện phụ.

Thánh giá dẫn đầu các cuộc rước kiệu, được vẽ hoặc thêu trên áo lễ. Người tín hữu chưng Thánh giá trên bàn thờ gia đình, trong phòng riêng, trên bàn làm việc, ghi hình Thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực, đeo Thánh giá trong cổ.

Thánh giá còn được ghi trên lễ vật, trên sách Phúc Âm, trên trán người lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Thêm sức, Xức dầu Bệnh nhân, Truyền chức thánh, trên những vật dụng được làm phép. Và Thánh giá cũng được xây trên phần mộ của mọi tín hữu.

Đặc biệt, để biểu lộ đức tin vào giá trị cứu độ của Thánh lễ và để nói lên mối liên kết chặt chẽ giữa Hy tế Thập giá và Thánh lễ, Giáo hội buộc phải chưng Thánh giá mỗi khi cử hành Thánh lễ.

Theo Quy chế Tổng quát của Sách lễ Rôma (RM) năm 2000, khi cử hành Thánh lễ, Thánh giá phải luôn luôn có tượng Chúa Giêsu chịu tử nạn, thường gọi là Tượng Chịu nạn hay Tượng Chuộc tội. Tượng Chịu nạn này phải để trên Bàn thờ hay gần Bàn thờ, và phải đặt thế nào cho cộng đoàn trông thấy dễ dàng (RM 122; 308). Do quy định này, khi dọn Thánh giá cho Thánh lễ, Thánh giá phải quay mặt hình Chúa Chịu nạn ra phía cộng đoàn; chỉ trong trường hợp nơi cử hành Thánh lễ đã có một tượng Chúa Chịu nạn quay mặt về phía cộng đoàn (như trong Nhà thờ đã có sẵn tượng Chúa Chịu nạn trên Cung thánh) thì mới có thể quay mặt tượng Chúa Chịu nạn nhỏ trên Bàn thờ về phía chủ tế.

Cũng nhằm tránh đặt 2 tượng Chúa Chịu nạn trên Cung thánh, phải cất Thánh giá đi đầu đoàn rước vào phòng thánh sau khi đã kết thúc nghi thức rước kiệu.

Trong các lễ trọng, chủ tế xông hương tượng Chúa Chịu nạn ba lần.

Tại các Nhà thờ Việt Nam hiện nay, để tôn kính Thánh giá, Thánh giá luôn được treo cao ở trung tâm bức vách chính của Cung thánh để mọi người nhìn thấy cách dễ dàng và cúi đầu thờ lạy mỗi khi vào Nhà thờ.

Cũng vì được treo cao, Thánh giá ít được chăm sóc, dễ bị bụi bám. Người phụ trách phòng thánh phải quan tâm đến sự xứng đáng của Thánh giá và lau chùi sạch sẽ nhất là trong các dịp lễ lớn.

BÀN THỜ (F: Autel; E: Altar; L:Altare)

Trong tiếng Latinh, từ Bàn thờ (altare) bắt nguồn từ chữ altus, có nghĩa là cao.

Ban đầu Bàn thờ hay tế đàn, là một nơi cao dùng để làm điểm liên kết giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với con người. Bởi vậy các ngọn núi hay các quả đồi là những nơi thường được chọn để xây dựng các tế đàn. Nếu gặp một miền đất bằng, người ta cũng đắp một nơi cao để dựng tế đàn, đặt Bàn thờ.

Trong Giáo hội, Bàn thờ là nơi hy tế Thập giá được hiện tại hóa, được tái diễn dưới dấu chỉ Bí tích, đồng thời là bàn tiệc Thánh Thể của Chúa Kitô.

Khi cử hành Thánh lễ, Bàn thờ là trung tâm điểm mà mọi người phải hướng đến (RM 259). Trong nghi thức thánh hiến Bàn thờ, Đức Giám mục đổ dầu thánh trên bốn góc và ở trung tâm Bàn thờ và biến Bàn thờ ấy trở thành biểu tượng của Chúa Kitô.

Kinh Tiền tụng Phục Sinh V tuyên xưng: “Khi hiến thân cứu độ chúng con, chỉ một mình Người (Chúa Kitô) là Bàn thờ, tư tế và lễ vật”. Khi cử hành Thánh lễ, dân Chúa quy tụ quanh Bàn thờ, như quy tụ quanh Chúa Giêsu. Vì thế, chủ tế bái chào, hôn kính và xông hương Bàn thờ trước khi cử hành Thánh lễ.

Giáo hội khuyên nên duy trì truyền thống đặt hài cốt các thánh dưới Bàn thờ cố định.

Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (RM) không cho phép đặt trên Bàn thờ bất cứ vật dụng nào không được trực tiếp dùng để cử hành Thánh lễ (RM 306) như bình hoa, mâm quả, cũng không được đặt tượng Đức Mẹ, tượng các thánh lên Bàn thờ để dâng hoa hay để làm tuần tam nhật, cửu nhật.

Có hai loại Bàn thờ.

– Bàn thờ cố định là Bàn thờ không xê dịch, thường làm bằng đá hay bằng gỗ tốt và bền.

– Bàn thờ di động là bàn thờ có thể xê dịch đi nơi khác, làm bằng gỗ thường.

Chỉ có Bàn thờ cố định mới được thánh hiến. Bàn thờ di động chỉ cần được làm phép do Giám Mục Giáo phận hay Linh mục Quản xứ (RM 300).

Luật Phụng vụ không quy định hình dáng của Bàn thờ. Do đó Bàn thờ có thể là hình chữ nhật, hình vuông, hình bầu dục, hình tròn. Nhưng tốt nhất là nên chọn hình chữ nhật, vì hình này thuận lợi cho việc bày trí các vật dụng phụng vụ trên Bàn thờ.

KHĂN BÀN THỜ (F:Nappe, E: Altar cloth, L: Tobale)

Bàn thờ luôn được phủ một tấm khăn màu trắng, gọi là khăn Bàn thờ.

Theo phép lịch sự đời thường, khi dọn tiệc người ta luôn phủ khăn trên bàn ăn. Khăn Bàn thờ cũng nhắc cho tín hữu biết Bàn thờ là bàn tiệc Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu trở nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn họ. Khăn này phải là khăn màu trắng, vì màu trắng gắn liền với biến cố Vượt qua của Chúa Kitô và với sự Phục sinh của Người. Do đó, dù Bàn thờ được chạm trổ công phu hay bằng gỗ quý thì cũng phải trải khăn trắng khi cử hành Thánh lễ. Không được vì muốn tôn vẻ đẹp của Bàn thờ mà chỉ trải một Khăn thánh khi làm lễ.

Tuy nhiên, ở phần rủ của khăn, có thể thêu những hình nghệ thuật thánh để tôn vẽ đẹp cho Bàn thờ.

Người phụ trách phòng thánh nên lưu ý đặc biệt về khăn Bàn thờ:

1. Phải trải khăn ngay ngắn, đường tâm Bàn thờ phải trùng với đường tâm khăn.
2. Phải tẩy các vết bẩn để khăn luôn giữ màu trắng tinh tuyền.

NHÀ TẠM (F: Tabernacle; E: Tabernacle; L: Tabernaculum)

Trong tiếng Latinh, từ Tabernaculum (Nhà tạm) có nghĩa là cái lều, là nơi ở tạm thời.

Trong Cựu Ước, Nhà tạm -cũng gọi là trướng tao phùng- là nơi đặt Hòm bia Giao ước, nơi Chúa chọn để gặp gỡ ông Môsê và dân Chúa suốt cuộc hành trình trong sa mạc. Dân coi đó là nơi Chúa ngự.

Từ đầu cho đến thế kỷ 16, trong Nhà thờ Kitô giáo không có Nhà tạm như hiện nay, mà chỉ có nơi cất giữ Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân và những người vắng mặt trong buổi lễ. Giáo dân rước Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ, phần Mình Thánh Chúa còn lại được cất giữ một nơi xứng đáng trong Nhà thờ, để các Phó tế và Linh mục đem đi phân phát cho bệnh nhân và những người già không thể đến dự lễ.

Đến thế kỷ 16 khi Giáo hội phải giáo dục dân Chúa về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể dưới hình bánh và để đáp ứng lòng tôn sùng Thánh Thể của dân Chúa qua việc chầu Thánh Thể, thì việc lưu giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà tạm mới thịnh hành. Các Nhà thờ đều có Nhà tạm, được thiết kế ở một nơi xứng đáng trong một gian nhánh Nhà thờ hay trong Cung thánh.

Quy chế Sách lễ Rôma 2000 quy định ba điểm về Nhà tạm như sau :

1. Nhà tạm phải đươc làm bằng chất liệu chắc chắn (gỗ, kim loại, đá); phải tránh mọi nguy cơ phạm thánh (gắn chặt vào tường, vào đế, có khoá); và không được trong suốt.

2. Có thể đặt Nhà tạm ở một nơi trong gian nhánh hay trong Cung thánh. Nếu đặt trong Cung thánh, thì phải thiết kế đối xứng với nơi đặt sách Thánh Kinh (không phải Thư đài), hoặc chính trung tâm Cung thánh ngay sau Bàn thờ.

3. Dù đặt ở vị trí nào, Nhà tạm cũng phải có một đèn chầu bên cạnh, ngày đêm thắp sáng, để nhắc nhỡ cho mọi người biết sự hiện diện cao trọng của Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.

Trong nhiều Nhà thờ, Nhà tạm được che bằng một tấm vải ở cửa Nhà tạm hay được phủ bằng một tấm vải lớn. Ta gọi đó là khăn Nhà tạm (F: Voile; E: Veil; L: Velum). Khăn này thường được trang trí bằng các hình thêu mỹ thuật. Khăn này làm cho Nhà tạm trở nên như chiếc lều, như căn phòng trong đó có Chúa Giêsu là Đấng “vui thích ở giữa dân Ngài”.

Đối với người phụ trách phòng thánh, cần lưu ý những điểm sau:

– Lau bụi và các vết bẩn, đặc biệt là trên mái Nhà tạm.
– Xem lịch Phụng vụ để dọn khăn Nhà tạm cùng màu với áo lễ.
– Nếu đèn Nhà tạm là đèn dầu, phải châm thêm dầu, khơi bấc và lau khói bám vào bóng đèn. Nếu đèn Nhà tạm là đèn điện, cũng nên dự liệu một đèn dầu, đề phòng khi cúp điện. Phụng vụ không quy định màu của đèn Nhà tạm, nhưng theo truyền thống, nên dùng màu đỏ hoặc trắng và không chói.
– Nên chưng hoa tươi cạnh Nhà tạm, nhất là trong ngày lễ lớn, để nơi Chúa ngự có thêm phần trang trọng, hầu nhắc nhỡ giáo dân ý thức về sự hiện diện và tình thương yêu của Chúa Giêsu là Đấng đã phán: “Này Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
– Vách trong của Nhà tạm thường được lót bằng vải trắng hoặc sơn màu trắng vốn là màu Thánh Thể. Nếu tấm đáy Nhà tạm cũng được lót bằng vải, thì nên dùng đinh cố định tấm vải đó, hoặc thay thế bằng tấm lót đó bằng gỗ mỏng hoặc bằng formica màu trắng, để khi đưa Bình thánh vào Nhà tạm, không làm nhàu tấm vải lót.

CHÉN THÁNH (F: Calice; E: Chalice; L: Calix)

Được gọi là chén, nhưng Chén thánh có hình dáng một chiếc ly có chân. Chén thánh dùng để đựng rượu nho sẽ trở thành Máu Thánh Chúa, là “Máu Giao Ước mới và vĩnh cữu” của Thiên Chúa ký kết với loài người.

Cho nên Chén thánh phải được làm bằng chất liệu quý giá như vàng, bạc và được chạm trổ trang trí mỹ thuật, cho tương xứng với sự cao quý của nó. Cũng để nói lên tính cách xứng đáng của chén đựng Máu Thánh Chúa cực trọng, mà Giáo hội rất khuyên không nên dùng chén thánh bằng pha lê, thuỷ tinh, sành, sứ vốn là những chất liệu dễ vỡ, hoặc bằng các thứ kim loại dễ méo móp.

Mỗi Nhà thờ nên có ít nhất là 2 Chén thánh, một cái dùng tại Bàn thờ chính, một cái dùng cho các Thánh lễ tại nhà giáo dân (như lễ cầu hồn tại gia) và cho Thánh lễ đồng tế.

Người phụ trách phòng thánh phải cất Chén thánh vào tủ (có khoá càng tốt), chỉ dọn ra bàn rượu nước khi có Thánh lễ. Khi dọn Chén thánh, nên lau cả bên trong lẫn bên ngoài chén. Đặc biệt Chén thánh bị mòn lớp mạ, cần lau sạch cả bên trong vì nếu không, khăn tuyết rất mau dơ.

Trong các dịp lễ có tổ chức đoàn dâng lễ vật, không nên rót rượu vào Chén thánh rồi trao cho đoàn dâng lễ vật, nhưng nên trao cho họ chai rượu. Nếu đoàn muốn dâng Chén thánh, nên đặt Chén thánh lên khay có phủ khăn, trên Chén thánh đặt Khăn thánh và tấm đậy (palla).

DĨA THÁNH (F: Patène; E: Paten; L: Patena)

Dĩa thánh có hình tròn và hơi lõm, dùng để đựng bánh lễ sẽ được truyền phép để trở nên Mình Thánh Chúa Kitô. Cũng như Chén thánh, Dĩa thánh cũng phải được làm bằng nguyên liệu quý giá, xứng hợp với công dụng của nó. Người phụ trách phòng thánh phải chuyên cần lau Dĩa thánh như Chén thánh.

Trong các dịp lễ có đoàn dâng lễ vật, thường người ta chọn một Dĩa thánh lớn, có phủ khăn, để đựng bánh lễ lớn. Dĩa này có thể bằng gỗ trang trí mỹ thuật. Cũng nên đặt bánh lễ lên giá đỡ để cộng đoàn dễ nhìn thấy rõ ràng tấm bánh được dâng làm lễ vật.

Trong mùa khí hậu ẩm ướt, phải bảo quản bánh lễ khỏi bị ẩm và mốc, đặc biệt đối với bánh lớn. Nên chia bánh nhỏ thành những gói, bỏ vào bao nilông, buộc kín, rồi cất vào hộp lớn. Khi dùng, chỉ mở lấy số lượng bánh cần dùng; còn đối với bánh lớn, mỗi bánh nên đựng vào mỗi bao nilông riêng và chỉ mở bao nilông ngay trước Thánh lễ.

KHĂN THÁNH (F: Corporal; E: Corporal; L: Corporale)

Trong tiếng Latinh, Khăn thánh được gọi là corporale, bởi tiếng corpus có nghĩa là thân mình. Được gọi là Khăn thánh (corporale) vì Mình Thánh Chúa được đặt ngay trên chiếc khăn này. Khăn thánh là khăn màu trắng, hình vuông, gấp thành 9 ô vuông. Ở trung tâm Khăn thánh hoặc ở một trong những ô vuông đó có thêu hình Thánh giá. Khi xếp khăn thành 9 ô vuông, bề mặt hình Thánh giá phải nằm bên trong khăn.

Mỗi khi cử hành Thánh lễ, phải trải khăn này lên Bàn thờ. Chén thánh, Dĩa thánh, Bình thánh phải được đặt trên khăn này. Trong Thánh lễ có đông Linh mục đồng tế, phải trải thêm vài Khăn thánh khác, để các Bình thánh và Chén thánh luôn được đặt trên các khăn này. Thông thường, trong Thánh lễ có đông Linh mục đồng tế, người phụ trách phòng thánh nên dọn ba Khăn thánh. Khăn thánh chính dùng cho chủ tế, hai Khăn thánh khác dùng để trải hai góc Bàn thờ, để đặt Chén thánh và Bánh thánh cho các Linh mục đồng tế rước lễ. Người phụ trách phòng thánh không nên trải Khăn thánh trước lễ. Chính Linh mục sẽ trải Khăn thánh khi đến phần dâng lễ vật.

Khi dọn đồ lễ, người phụ trách phòng thánh đặt Khăn thánh (đã xếp thành chín ô) trên tấm đậy.

TẤM ĐẬY (F: Pale; E: Pail; L: Palla)

là một tấm hình vuông hoặc tròn, dày và cứng, màu trắng, thường có trang trí mỹ thuật. Tấm đậy dùng để đậy miệng Chén thánh, hầu tránh bụi hoặc côn trùng rơi vào rượu thánh, nhất là khi cử hành Thánh lễ ngoài trời và vào mùa côn trùng nở rộ.

KHĂN TUYẾT (F: Purificatoire; E: Purificator; L: Purificatorium)

Trong tiếng Latinh, từ purificatorium đến từ tính từ purus có nghĩa là sạch sẽ và động từ facere có nghĩa là làm.

Khăn tuyết là khăn dùng để làm sạch Chén thánh, nên còn gọi là Khăn lau chén. Khăn này màu trắng, có thêu Thánh giá ở trung tâm, hình chữ nhật gấp ba phần bằng nhau theo chiều dọc. Vì dùng để lau khô, nên vải Khăn tuyết phải là thứ vải thấm nước.

Khi dọn đồ lễ, người phụ trách phòng thánh dọn Khăn tuyết ngay trên miệng Chén thánh, dưới tấm đậy và Khăn thánh. Vì khăn này dễ dơ và ướt, ta năng thay khăn. Sau lễ, phơi khăn nơi chỗ thoáng gió để khăn khỏi bị thâm kim.

BÌNH THÁNH (F: Ciboire; E: Ciborium; L: Ciborium)

Bình thánh có hình dạng một bán cầu có chân, dùng để đựng Bánh thánh phân phát cho giáo dân. Bình thánh có nắp đậy và thông thường có Thánh giá ở đỉnh nắp.

Sau phần rước lễ, Mình Thánh Chúa được cất trong Bình thánh, lưu giữ trong Nhà tạm để mọi người tôn kính, kính viếng hoặc để mang cho những người yếu liệt rước lễ.

Có một vật dụng nhỏ dùng để đựng vài bánh thánh cho các người yếu liệt tại tư gia.

Đó là HỘP ĐỰNG MÌNH THÁNH CHÚA (F: custode; E: host container; L: custos).

Hộp này thường có hình tròn, làm bằng chất liệu bền, chắc như đồng mạ vàng, bạc mạ vàng… . Khi dọn đồ thánh ta đặt hộp này trên Khăn thánh.

Mỗi Giáo xứ, tuỳ số lượng giáo dân mà trang bị nhiều hay ít Bình thánh. Tuy nhiên, cần có một bình dự phòng cho Thánh lễ tại nhà tang.

BÌNH RƯỢU NƯỚC, DĨA HỨNG NƯỚC, KHĂN NGÓN và DĨA HỨNG VỤN BÁNH THÁNH (F: Burette; E: Cruet; L: Ampulla):

BÌNH RƯỢU (burette de vin) 
dùng cho Thánh lễ là một chiếc bình nhỏ, trong suốt, không màu; cũng có thể dùng một chai nhỏ xinh xắn thay thế bình này. Bình rượu thường có nắp đậy hoặc nắp vặn. Những bình nghệ thuật thường có quai cầm và miệng nhỏ chỉ đường rót rượu ra khỏi bình.

BÌNH NƯỚC (burette d'eau) 
có hình dạng như bình rượu, chỉ khác là để đựng nước dùng để pha vào rượu và để tráng chén sau phần Hiệp lễ. Ý nghĩa của giọt nước pha vào rượu được Linh mục đọc thầm: “Nhờ dấu chỉ nước pha vào rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con”.

Bình nước cũng được dùng để Linh mục rửa tay sau phần Dâng lễ vật.

Ngày nay, có nhiều Nhà thờ dùng một chén riêng để đựng nước rửa tay cho Linh mục. Ý nghĩa việc rửa tay được Linh mục đọc thầm khi ngài rửa tay: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội con phạm, xin Ngài thương thanh tẩy”.

Nếu dùng bình nước để rót ra cho Linh mục rửa tay, thì cần một dĩa hứng nước dơ.

DĨA HỨNG VỤN BÁNH THÁNH (F: plateau; E: communion paten; L: patena)

thông thường làm bằng kim loại hoặc gỗ, có hình trái xoan (hình thuẫn), hơi lõm, để hứng các vụn Bánh thánh có thể rơi xuống khi Linh mục cho giáo dân rước lễ.

Sau phần rước lễ, chú giúp lễ đặt dĩa nầy lên bàn tráng chén hoặc đặt trên Bàn thờ để Linh mục gạt vụn Bánh thánh vào Chén thánh.

Sau khi rửa tay xong, Linh mục cần một khăn để lau khô tay. Khăn này được gọi là KHĂN NGÓN (F: manuterge; E: napkin; L: manutergium) hay khăn tay.

Khăn này có hình chữ nhật, màu trắng được xếp thành nhiều lớp, làm bằng vải thấm nước. Trên khăn này không thêu Thánh giá. Sau giờ lễ, nên mở khăn ra phơi nơi thoáng gió để khăn chóng khô. Mỗi Nhà thờ phải có ít nhất vài khăn ngón để thay đổi nhau.

Bình rượu nước và dĩa hứng nước dễ bị bẩn. Mỗi tuần, người phụ trách phòng thánh nên chùi sạch. Ngoài ra, khi cất vào tủ, nên đậy kín bình rượu nước, để tránh gián kiến rơi vào.

Nếu có điều kiện, nên có hai bộ bình rượu nước, hai dĩa hứng nước và hai chén đựng nước rửa tay, bộ tốt dùng cho lễ trọng.