Theo thiển ý người viết, phải làm sáng tỏ ”nguồn gốc” của chữ ”Công Giáo” trước khi giải thích ”ý nghĩa” của nó bởi vì giải thích ”suông” mà chẳng đưa ra ”nguyên do”: lý do, duyên cố, do lai, tức là ”căn cơ, cội nguồn” của chữ này thì giải thích cho lắm cũng bằng không!
Lời dẫn nhập
Theo thiển ý người viết, phải làm sáng tỏ ''nguồn gốc'' của chữ ''Công Giáo'' trước khi giải thích ''ý nghĩa'' của nó bởi vì giải thích ''suông'' mà chẳng đưa ra ''nguyên do'': lý do, duyên cố, do lai, tức là ''căn cơ, cội nguồn'' của chữ này thì giải thích cho lắm cũng bằng không!
A- ''Mọi sự đều có nguyên nhân!''
Mệnh đề khẳng định ấy là một trong bảy nguyên tắc căn bản của lý trí con người. Blaise Pascal nói: ''Con người là cây sậy biết tư duy.'' Descartes bảo: ''Tôi tư duy, vậy là tôi hiện hữu.'' (Cogito, ergo sum. – Je pense, donc je suis. – I think, therefore I am.) Tôi hiện hữu có giới hạn nên tôi biết rằng có Đấng VÔ HẠN, tức là Đấng Hằng Hữu hay là Đấng Tự Hữu. Đấng ấy KHÔNG phải là ''sự của mọi sự'', mà là ''Tác Giả, Nguyên Lý, Nguồn Gốc'' CỦA mọi loài hữu hình và vô hình. Ngài là Ông Trời mà người đời đề cập đến trong thơ-văn, cuộc sống như sau: ''Ơn trời mưa nắng phải thì – Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu. Lạy trời mưa xuống! Lấy nước tôi uống! Lấy ruộng tôi cầy! Lấy đầy bát cơm! Hãy tự giúp mình thì Trời sẽ giúp cho. Ai cho không bằng trời cho. Trời sinh* voi, sinh cỏ. Trời ơi, cứu con với! SOS: Save our souls. (Xin cứu linh hồn chúng con.) (*Nature: (được sinh ra) là ''tự nhiên'', tức là ''thiên nhiên''!)
B- ''Thành sự tại Thiên''
Khắp năm châu, ''thiên'' hạ đều ngẫm nghĩ về thành công hay thất bại của mình là DO ở ''thiên'' thượng như sau: ''Mưu sự tại nhân; thành sự tại thiên. (Tính việc tại người; nên việc ở trời.) Tôi lấy câu này bằng tiếng Đức, đổi thì ''hiện tại'' sang ''thì quá khứ'' là câu lại có nghĩa khác: ''Con người nghĩ ngợi nên Trời CƯỜI cho! (Der Mensch hat gedacht, und Gott hat gelacht!) (1) ''Trời ''cười cho'' là phải bởi vì: ''Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. (Lưới trời lồng lộng, KHÔNG ai thoát được.)
Còn Cụ Nguyễn Du thì cho rằng Ông Trời rất công bằng: ''Ngẫm hay muôn sự tại trời – Trời kia đã bắt làm người có thân – Bắt phong trần phải phong trần – Cho thanh cao mới được phần thanh cao – Có đâu thiên vị người nào – Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.'' Vậy thì, theo Cụ, phải chăng đó là ''Công Đạo''? Cụ Trần Tế Xương buồn đời, làm thơ trào phúng: ''Bắc thang lên hỏi ông trời nhẽ – Trêu ghẹo người ta thế nữa thôi?'' Hàn Mặc Tử thì biết được chữ tình do đâu: ''…Như đón từ xa một ý thơ – Ai hãy làm thinh, chớ nói nhiều – Để nghe dưới đáy nước hồ reo – Để nghe tơ liễu rung trong gió – Và để xem Trời giải nghĩa yêu!'' như Lời Thánh Vịnh, 27,10: ''Dù cha-mẹ bỏ tôi, Chúa vẫn tiếp rước tôi.'', như Thánh Hiền dạy: ''Thiên nhân tương dữ.'' (Trời và người giao hảo.)
Nhưng cũng có người tỏ bày tâm sự mà dám than van: ''Trời sao, Trời ở không cân? Kẻ ăn không hết, người mần / lần không ra!'' Ngược lại, cũng có người tin vào luật NHÂN-QUẢ trên cõi tạm này: ''Ở hiền thì Trời chúc phúc! Ở ác thì Trời phạt!'' Xét cho cùng, suy nghĩ này lại phù hợp với ''Hiến Chương Nước Trời về sau'' trong Kinh Thánh (Phước thật tám mối): ''Thứ sáu: Ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phước thật vì chưng sẽ đặng thấy mặt Đức Chúa Trời vậy.''
C- Đạo từ Trời
Rõ ràng Cái Đạo của Trời (THIÊN Đạo) là Lý Lẽ (THIÊN Lý) hiển nhiên mà người đời phải vâng theo để sống ''Đạo của thọ tạo'' là lòng biết ơn và sự tôn thờ Đấng Hóa Công như ai cũng nói: ''Đầu đội Trời; chân đạp đất.'' Con người được Trời ban cho (THIÊN phú) tự do suy nghĩ và hành động theo Lẽ CỦA Trời để sống xứng đáng với ''THIÊN chức'' của mình là ''THIÊN-Tử'': Mọi người là con CỦA Trời, được tác tạo qua cha-mẹ, chứ không phải một mình Đức Vua mới được ''THIÊN Ân'' đó. Có những Ngôi Chùa của bà con Phật Giáo mang Quý Danh này! Phải chăng quý Thầy, quý Sư Cô, quý Ông Bà và Anh-Chị-Em Phật Tử cũng quan niệm rằng Đức Phật là ''Vĩ Nhân, Đại Thánh'', là ''Thiên Bửu Bối'' mà Trời ban qua Thân-Sinh của Ngài Thích Ca? Giáo Hoàng Biển-Đức dạy thêm thế này: ''Nước Cha trị đến cũng là khi mọi Tôn Giáo đều nhìn nhận có Đấng Tối Cao…!''
D- Đấng Tối Cao
''Tối Cao'' vì Ông Trời là Đại Kiến Trúc Sư, Toàn Năng, Vô Biên! Còn con người chỉ là kỹ sư tí hon, hữu hạn. Nhà bác học Edison ghi trong Sổ Vàng vào dịp Khánh Thành Tháp Eiffel như sau: ''Tôi thán phục các kiến trúc sư làm nên Tháp này và cúi đầu thờ lạy Thiên Chúa là Kiến Trúc Sư Toàn Năng!'' Thật vậy, dù có thể ''thay Trời làm mưa'' chăng nữa, tôi CHỈ dừng lại trong phạm vi hữu hạn của tôi, tức là ''mượn, nhờ'' những nguyên lý, định luật và vật chất… mà Ông Trời đã LÀM ra sẵn. Nguyên lý Archimède (sức đẩy của nước) ĐÃ có từ thuở tạo thiên lập địa. Archimède KHÔNG phải là tác giả, mà CHỈ tìm tòi, khám phá ra Khoa Học là cái DO Ông Trời làm nên. Sẽ KHÔNG bao giờ thấy được nguyên tử, nhưng hầu như ai cũng biết rằng đầu một mũi kim may có hằng triệu nguyên tử và trong mỗi nguyên tử lại có vô số âm, dương điện tử và trung hòa tử! Ứng dụng nguyên tử vào việc phục vụ công ích là thuận với Trời để mà còn: Thuận THIÊN giã tồn! Dùng nó để chế tạo vũ khí tàn sát sinh linh, hủy diệt thế giới là trái với Trời thì mất: Nghịch THIÊN giã vong!
E- Ông Trời
''Ông Trời'' được người dân Việt diễn tả bằng nhiều Danh Xưng khác nhau, nhưng vẫn có CÙNG một ý nghĩa là ''Chúa Tể Càn Khôn'' hay ''Thượng Đế'': Ông Vua CỦA muôn thọ tạo, ngự ở trên cao. Trong thơ-văn Việt Nam cũng có các Danh Xưng dành cho Ông Trời: ''Ông Cao Xanh, Ông Xanh, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đấng Vô Hình, Đấng Vô Hạn…'' Có người lấy Vũ-Trụ mà ám chỉ Ông Trời: ''Thử xem con tạo xoay vần nơi nao!'' Cũng có người ''trách móc'' Ông như sau: ''Con tạo bất công!''
F- Lão Giáo viết về Ông Trời
Theo Lão Giáo, Ông Trời được quan niệm như sau: ''Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh, tịch hề lưu hề, độc lập bất cải, chu hành nhi bất dãi, KHẢ VI thiên hạ mẫu. Ngộ bất tri kỳ danh, tự chi viết ĐẠO.'' (Có gì đó không rõ ràng, sinh ra trời đất trước, mà lặng lẽ, mà còn đó, đứng riêng biệt không thay đổi, xoay vần mà không mỏi, CÓ THỂ LÀM MẸ NGƯỜI ĐỜI. Ta không biết danh xưng lạ lùng, gọi được là ĐẠO.)
G- Phật Giáo cũng cám ơn Trời
Phật Giáo nhìn thấy Kỳ Công CỦA Ông Trời qua ''sinh mệnh'' hay 'thọ mệnh'' cụ thể như lời dạy của Đức Phật: ''Trong một giọt nước có hằng hà sa số chúng sinh.'' Phật Tử cũng nói: ''Nhờ Trời, Phật phù hộ… Cảm ơn Trời, Phật!''
Hai Tôn Giáo Bạn (vừa nêu) đồng quan niệm về Ông Trời như các Tôn Giáo khác dù mỗi Tôn Giáo ''đặt tên'' cho Ngài theo cách của mình.
Ghi Chú:
1- Động từ ''lachen: cười'' và ''lenken: điều khiển'' cùng có quá khứ phân từ ''gelacht''! Bài khác sẽ nói về cách biến âm của chữ ''Catholique'', các chữ cùng một gốc với nó, các Danh Xưng của Chúa Giê-su được phiên âm không giống nhau …
2- ''Ta HẰNG HỮU trước khi có Abraham!'' (Avant qu'Abraham existât, JE SUIS. Before Abraham was, I AM.) Lời Ngài ''JE SUIS; I AM; (Ego) sum QUI SUM.'' (trong Gioan 8,58) có nghĩa là Giavê, tức Đấng Hằng Hữu. Cựu Ước ghi câu Thiên Chúa trả lời cho Môisê về Thánh Danh của Ngài: ''Je suis qui suis.'' (Ta là Đấng Hằng Hữu.) Cho nên, Giáo Hoàng Bênêdictô ''biến'' attribut (thuộc từ) của ''Je'' thành danh từ: ''Ich bin DER ICH-BIN-DA. Chữ ''suis'' thứ hai ở thì hiện tại (như trong Gioan 8,58) có ''giá trị'' cho hôm qua, hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Đó là thì ''présent vrai en tout temps'': hiện tại thực sự trong mọi thời. Dịch như tiếng Latinh-Pháp… thành ''I am WHO AM'' thì mới đúng, thay vì ''I am who I am.'' (chỉ một lần chủ từ I (Je) mà thôi. Có người Việt dịch sai thế này: ''Ta là Đấng (mà) Ta là!'' Câu ''Ego sum qui sum'' có ý nhấn mạnh thế này: ''Moi, Je suis qui suis; C'est Moi qui suis.'' (Chính Ta là Đấng Hằng Hữu: L'ÉTERNEL!)
3- Ngày trước, Giáo Hội viết ''dies dominica'' là hiểu theo nghĩa ''thời giờ của Chúa/thuộc về Chúa''. Với nghĩa ấy, ''dies'' có giống cái (féminin) nên tính từ ''dominicus'' phải thành ''dominica'' theo giống cái. (Từ điển Langenscheidtswörterbuch của Đức.) Chữ ''dies dominicus'' thì thông dụng hơn với ngoài đời và nhất là với học giả về Latin ở Châu Âu bởi vì ''dies'' có giống đực: masculin.
Chúng ta cũng có các từ như là: cena dominica: Tiệc (bữa ăn) của Chúa là ''Phép Thánh Thể''; oratio dominica: Paternoster / Pater Noster – Kinh Lạy Cha; corpus dominicum: Mình (Thánh) Chúa.
4- Chữ ''Catholic'' có ngữ nguyên Hy-lạp ''kata'' là ''among, into, to, for, in respect of …''; còn ''holos'' là ''the whole, all, altogether …'' Chữ ''holocauste'' là ''lễ vật toàn thiêu: bị thiêu hoàn toàn – victime entièrement brûlée''; Chữ ''causte'' do gốc Hylạp ''kaiein'' là ''đốt cháy''. Từ đó, chữ ''holocauste'' cũng có nghĩa là ''việc tàn sát tập thể''.
5- Chữ ''univers, université, universaliser…'' đều lấy gốc ''versus''. Chữ ''vers'' là '' về hướng''; chữ ''verser'' là ''đổ, đổ về, theo, đi theo''.