Thật ra, trong lễ cưới của chúng tôi mọi sự diễn tiến bình thường, hoàn toàn tốt đẹp. Xưa kia cả hai chúng tôi đều hạnh phú
Khi bàn đến sự hiệu lực của hôn nhân Công Giáo bị đổ vỡ, người ta thường không có chung một cái nhìn. Những người trong cuộc thường trả lời: “Thật ra, trong lễ cưới của chúng tôi mọi sự diễn tiến bình thường, hoàn toàn tốt đẹp. Xưa kia cả hai chúng tôi đều hạnh phúc. Nhưng rồi thời gian đưa đẩy, khiến chúng tôi từ từ sống xa nhau…”, hay: “Chồng/vợ tôi đã từ từ thay đổi theo một chiều hướng khác, không còn như xưa nữa, khiến chúng tôi không thể tiếp tục đời sống vợ chồng với nhau được nữa.”
Trong những trường hợp tương tự như thế, người ta có thể khẳng định một cách khách quan rằng, đó là hôn ước Kitô giáo thành sự hay hoàn toàn hiệu lực; vì thế, mang tính chất “ bất khả tháo gỡ”, và sự quan hệ kiểu vợ chồng với một người mới khác là ngoại tình.
Nhưng trên thực tế, rất nhiều người Công Giáo sau khi ly hôn lại đã có sự quan hệ kiểu vợ chồng với một người khác. Sự thể thực tiễn này đòi hỏi phải có một cách giải quyết vấn đề hợp lý và đúng đắn.
Còn Giáo Hội cần phải xử sự như thế nào trong những trường hợp như thế? Đâu là những biện pháp hay đường hướng mà Giáo Hội có thể sử dụng để gặp gỡ và giúp đỡ những người liên hệ một cách hợp tình hợp lý?
Đứng về phương diện Bí tích, khi một hôn nhân Công Giáo đã thành sự mà bị đổ vỡ, thì Giáo Hội cũng không thể làm được gì khác ngoài việc phải xác tín rao giảng và tuân giữ các giáo huấn của Phúc Âm. Còn về phương diện nhân bản, thì chẳng những Giáo Hội xét theo toàn thể cộng đồng các tín hữu, mà từng tín hữu nữa, có rất nhiều điều kiện và phương thế để đỡ nâng và an ủi những người đang phải gánh chịu những tổn thương và những mất mát đầy đau đớn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.
Thật vậy, những gì liên quan đến sự đổ vỡ của Bí tích Hôn Nhân, chúng ta với tư cách là Giáo Hội không được phép rút lại hay sửa đổi lời thề hứa hôn nhân mà hai người nam-nữ đã một lần long trọng thề hứa trước Bàn Thờ Thiên Chúa và trước sự chứng giám của Giáo Hội là trung thành với nhau trọn đời cho đến chết. Trong vấn đề hôn nhân Công Giáo, chúng ta tuyệt đối không được hành động tiền hậu bất nhất, tức khi cử hành hôn lễ thì tuyên nhận “ sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”, nhưng sau đó ít năm lại phân ly. Điều Thiên Chúa đã phối hợp, thì cả Giáo Hội cũng không được phép phân ly. Vì thế, giả thử Giáo Hội chúc lành cho hôn nhân của những người đã ly dị nay lại tái kết hôn, hoặc cho phép họ được tự do rước lễ bình thường như các tín hữu khác, thì hành động đó của Giáo Hội hoàn toàn nằm ngoài giáo huấn của Phúc Âm. Điều gì chính Đức Giêsu đã gọi là sự gian dâm hay ngoại tình, thì Giáo Hội không thể phê chuẩn và chúc lành, dù dưới một hình thức tư riêng kín đáo.
Khi Giáo Hội không chấp thuận cho những người Công Giáo đã ly hôn lại tái kết hôn và những người vợ/chồng của họ được lãnh nhận các Bí tích hoàn toàn không phải là một sự trừng phạt hay một sự kết án của Giáo Hội như người ta thường hiểu lầm và phiền trách, nhưng là Giáo Hội phải trung thành với các giáo huấn của Chúa trong Phúc Âm. Sự ngăn cản các đôi vợ chồng hôn nhân không hợp lệ như thế, mà người Việt thường gọi là gia đình rối, lên rước Mình Thánh Chúa không do Giáo Hội đặt ra, nhưng nguyên nhân hoàn toàn hệ tại chính những người trong cuộc. Những quan hệ vợ chồng bất hợp pháp của họ đi ngược lại với giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội, một giao ước được cụ thể hóa một cách rõ ràng qua Bí tích Hôn Nhân cũng như qua Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội luôn trung thành rao giảng và xác quyết điều đó, vì Giáo Hội đã xác tín đầy đủ giáo huấn Phúc Âm rằng con người được kêu mời sống một cuộc sống trong chân lý, một cuộc sống mang lại cho họ sự hạnh phúc chân thật. Dĩ nhiên, một điều chắc chắn không ai chối cãi được, đó là một cuộc sống trong chân lý, trong công bình chính trực trước hết sẽ đòi hỏi con người phải hy sinh, phải từ bỏ những đòi hỏi tự nhiên không hợp lý của mình. Nhưng một khi chân lý ấy được loan báo và được đón nhận trong tình yêu chân thành và trung tín, thì chân lý ấy sẽ đem lại sự cứu rỗi, sự bình an và sự tự do chân chính.
Phải chăng họ sẽ mãi mãi không được lãnh nhận các Bí tích?
Một điều làm cho cả những người thành tâm luôn sống gắn bó với Giáo Hội cũng phải “ sốc” là khi nghĩ tới việc cấm cản những người sống đời sống hôn nhân không phù hợp với giáo luật, tức những hôn nhân rối, không có giới hạn, nghĩa là người ta không biết sự cấm cản ấy sẽ kéo dài đến bao lâu, khi nào thì chấm dứt! Người ta thường nghe đi nghe lại câu phàn nàn: “Mỗi người Công giáo sau khi xưng tội đều được phép rước lễ, chỉ trừ những người ly hôn và lại đã tái kết hôn!” Đây là một lý luận thực tiễn khiến chúng ta cần phải suy tư. Quả thật, nếu đứng từ ngoài nhìn vào, người ta sẽ thấy rằng trong Giáo Hội tất cả mọi kẻ có tội đều tìm gặp được sự tha thứ. Trong khi đó, những người có lẽ hoàn toàn vô tội khi bị vợ hay chồng mình bỏ rơi, và rồi vì hoàn cảnh sống quá cô độc hay vì lý do con cái đành phải tái kết hôn, lại không được hưởng sự tha thứ ấy! Đây là một vấn đề mục vụ hết sức nan giải, không dễ dàng giải thích một cách hoàn toàn thỏa đáng được.
Nhưng một điều chắc chắn là không phải tất cả mọi tội lỗi người ta phạm đều tự động tìm gặp được sự tha thứ một cách dễ dàng. Tiếp đến, một điều khác cũng chắc chắn là mỗi người đều đòi buộc phải nỗ lực hoàn thiện cuộc sống mình mỗi ngày. Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ: Nếu một người nào đó do ươn lười bỏ không tham dự Thánh Lễ các ngày Chúa Nhật, nhưng vào dịp rước lễ lần đầu, lễ cưới hay lễ an táng của một người bà con, lại muốn rước lễ. Câu hỏi được đặt ra là: Người ấy có được phép rước lễ không? Câu trả lời: Trước hết là không, vì người ấy đã không chu toàn điều răn thứ ba của Chúa “ Ngươi hãy thánh hóa Ngày Chúa Nhật.” Chỉ sau khi người ấy đã xưng tội nên, tức đã lãnh nhận Bí tích Hòa Giải thành sự, thì cánh cửa dẫn tới Bàn tiệc Thánh Thể mới được mở ra cho người ấy. Dĩ nhiên điều đó đòi hỏi một sự đền tội và dốc lòng chừa thành tâm của hối nhân là sẽ nỗ lực hết sức để không bao giờ tái phạm tội đã xưng. Nói cách khác, hối nhân thành tâm hứa sẽ thay đổi cuộc sống mình.
Trong khi đó, tình trạng khách quan của những người ly hôn và lại đã tái kết hôn, tức những người theo giáo huấn Phúc Âm và theo luật lệ Giáo Hội thuộc diện những người “ ngoại tình”, lại hoàn toàn khác, vì giả thử họ có đi xưng tội thì tình trạng “ngoại tình” của họ vẫn tồn tại, vẫn không thay đổi, bao lâu họ còn tiếp tục sống trong hôn nhân bất hợp lệ. Rất có thể có người nào đó can đảm dám nhìn nhận rằng, theo giáo huấn Phúc Âm tôi đang sống trong một hôn nhân bất hợp lệ và tôi không thể thay đổi được, vì tôi còn có trách nhiệm đối với người vợ/chồng mới và các con cái của tôi. Liệu trong trường hợp này họ có được một lối thoát khả dĩ?
Vẫn còn những cánh cửa mở rộng
Ngoài phạm vi thuộc về Bí tích, Giáo Hội luôn dành mọi ưu ái và yêu thương cho những người ly hôn lại tái kết hôn và các người vợ/chồng của họ, bằng cách tận tình an ủi, săn sóc và giúp đỡ họ trong tất cả mọi lãnh vực không có liên quan tới các Bí tích. Để hiểu rõ được điều ấy, cần phải phân biệt rõ ràng: Sự phân biệt khách quan và sự phân biệt chủ quan. Trong giáo huấn về luân lý của Giáo Hội Công Giáo, một điều quan trọng mà người ta cần phải làm sáng tỏ, đó là: Liệu người nào đó đã bị người vợ hay chồng bỏ rơi một cách vô tội và bất công, hay chính người đó tự xóa bỏ hôn nhân hoặc kết hôn với một hậu ý xấu. Điều đó muốn nói rằng xét về phương diện chủ quan các tình huống của vấn đề rất phức tạp và khác biệt. Nhưng xét về phương diện khách quan thì luôn luôn chỉ có một thực tại duy nhất, đó là sự đổ vỡ của hôn nhân.
Còn về phần Giáo Hội, ngoài những yếu tố và sự kiện khách quan rõ ràng, Giáo Hội không thể dựa theo những tình huống chi tiết chủ quan của vấn đề để có thể đưa ra một phê phán hoàn toàn đúng sự thật được, nhưng điều đó thuộc về một mình Thiên Chúa, bởi vì. “ Con người chỉ nhìn thấy được điều trước mắt, còn Thiên Chúa nhìn thấy tận đáy lòng con người.” (1Sm 16,7b). Hơn nữa, trên thực tế Giáo Hội là một cộng đồng rộng lớn, nên trong các việc giải quyết cá nhân riêng rẽ, Giáo Hội không thể đưa ra được những biện pháp nào khác ngoài việc dựa theo những dẫn chứng khách quan và cụ thể cần thiết. Ở đây chúng ta có thể tạm lấy trường hợp xảy ra trong một giáo xứ tương đối nhỏ làm ví dụ, một nơi mà mọi người đều quen biết nhau. Đồng thời cũng tạm cho rằng vị Linh mục Quản Xứ hoàn toàn hiểu biết và thông cảm cho hoàn cảnh của một người đàn ông hay một người phụ nữ bị vợ hay chồng mình bỏ rơi và đi theo một người khác. Sau nhiều năm sống cô đơn lẻ loi, người bị vợ hay chồng bỏ rơi đó lại quen biết và lập gia đình với một người khác. Trong trường hợp này, nếu vị Linh mục chúc lành cho sự quan hệ này hay vì hoàn cảnh đặc biệt của người ấy mà cho phép rước lễ, thì xét về phương diện Bí tích sự ngoại lệ này sẽ rất khó lòng tìm ra được câu giải thích thỏa đáng. Vả lại, nhiều người khác trong những trường hợp tương tự cũng đòi hỏi được hưởng sự ngoại lệ như thế. Từ đó phát xuất những hậu quả tiêu cực khó lường, đó là: Nếu từ chối không cho phép những người này trong các trường hợp tương tự được hưởng sự miễn chuẩn ngoại lệ, thì chắc chắn sẽ gây nên sự bất mãn, sự chống đối và sự bất ổn trong cộng đồng Giáo xứ; nhưng nếu chấp nhận cho tất cả những người ấy được hưởng sự miễn chuẩn ngoại lệ nói trên, thì vị Linh mục đã tự tiện tương đối hóa hay bình thường hóa “tội ngoại tình!” Vì thiếu những tiêu chuẩn chắc chắn, nên Giáo Hội chỉ có thể tận tình giúp đỡ được những người thực sự đang phải sống trong hoàn cảnh đáng thương ấy bằng mọi cách thế không nằm trong lãnh vực Bí tích.
Giáo Hội càng bức xúc lo lắng đặc biệt trong trường hợp, nếu một người dù sống trong quan hệ mới, nhưng không chỉ luôn sống gắn bó với đức tin mà còn đưa dẫn người bạn đời mới của mình sống đạo sâu sắc, dấn thân trong các sinh hoạt tông đồ của Giáo xứ, nhất là luôn nỗ lực giáo dục con cái theo đúng đức tin của Giáo Hội. Trong trường hợp này, sự động viên và sự nâng đỡ của cộng đồng Giáo xứ và cụ thể là qua vị Linh mục Quản Xứ và Ban Hành Giáo Xứ hay các người có trách nhiệm trong Giáo xứ là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Trong trường hợp hoàn toàn đặc biệt này, một câu hỏi thuộc lãnh vực mục vụ được đặt ra là: Liệu người ta có thể tìm gặp riêng những người trong cuộc và chân thành cho họ biết rằng, đối với luật Chúa và luật Giáo Hội, hoàn cảnh “hôn nhân rối” của họ vẫn không thay đổi, bao lâu họ còn tiếp tục sống kiểu vợ chồng với nhau, nhưng vì các nỗ lực đầy xác tín và nên gương của họ trong cuộc sống đức tín hằng ngày, nhất là trong việc giáo dục con cái sống theo đúng các giáo lý của Giáo Hội, nên họ được phép lãnh nhận các Bí tích của Giáo Hội? Dĩ nhiên trước một quyết định quan trọng có tác động đến đời sống tâm linh của những người trong cuộc, vị Linh mục Quản Xứ cần bàn hỏi và thỉnh ý các Linh mục khác trong Giáo Hạt hay trong Giáo Phận, và nếu cần, phải trình cho Đức Giám Mục Giáo Phận biết và thỉnh ý ngài. Ở Âu Mỹ, những “ phép chuẩn” cho những trường hợp này đã được áp dụng trong nhiều Giáo xứ, vì “ Luật ngày Sa-bát là vì con người, chứ không phải con người vì luật ngày Sa-bát”, vâng, mọi luật lệ là để giúp con người được hạnh phúc, chứ không phải để đày đọa con người trong đau khổ!
Phần cá nhân tôi, nếu dựa theo nguyên tắc, tức dựa theo phương diện Bí tích Hôn Nhân, tôi sẽ thành tâm góp ý với đôi vợ chồng liên hệ: “Dựa theo ý nghĩa của điều răn Thứ Sáu, thì cuộc sống vợ chồng của anh chị là không đúng. Đây là một điều mà anh chị hiện chưa thể hay chưa muốn thay đổi. Vì thế, anh chị cần cố gắng trung thành chu toàn các Điều Răn khác của Chúa một cách cẩn thận. Chắc chắn Chúa sẽ hài lòng và chúc lành cho sự cố gắng của anh chị. Người biết rõ hơn ai hết hoàn cảnh sống của anh chị và chắc chắn Người sẽ không do dự trong việc ban các ơn cần thiết cho cuộc sống ấy!”
Một tư tưởng khác tôi xin được phép trình bày tiếp sau đây. Tất cả chúng ta với tư cách là Giáo Hội, nhiều khi phải hoàn toàn chịu bó tay trước các quyết định thuộc các Bí tích thánh, chẳng hạn việc tháo gỡ một hôn nhân Công Giáo đã thành sự. Chúng ta chỉ được giao quyền quản lý các Bí tích và quyền làm trung gian chuyển các ơn lành của Chúa đến cho các tâm hồn theo đúng ý muốn và các quy định của Người, chứ chúng ta không phải là chủ nhân của các Bí tích và cũng không có toàn quyền quyết định trên các Bí tích và các ơn lành siêu nhiên. Điều gì Đức Giêsu không đặt vào tay chúng ta, chúng ta không có quyền phân phát cho người khác.
Nhưng Thiên Chúa toàn năng và thượng trí hơn đôi tay bị bó chặt của chúng ta bội phần. Vì thế, người ta hoàn toàn hợp lý khi hy vọng và xác tín rằng, một người nào đó mặc dù “ bị bó tay”, nhưng sẽ nhận được một cách dồi dào các ân sủng của Thiên Chúa hơn là một kẻ khác hoàn toàn được tự do, chứ không bị cản trở trong việc lãnh nhận các Bí tích thánh, nhưng lại lãnh nhận các Bí tích ấy một cách hời hợt và bất xứng. Theo thiển ý, tôi cho rằng tư tưởng này rất quan trọng, và trên thực tế nó đã chi phối các hoạt động mục vụ của tôi; bởi vì, một điều đáng tiếc là những người ly hôn và lại đã tái kết hôn thường bị mặc cảm là chỉ “tội” hôn nhân rối của họ mới là thứ tội nặng nề, đến nỗi không thể tìm được sự tha thứ. Trong khi đó, trên thực tế, chắc hẳn các tội chống lại tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân còn nặng nề hơn nhiều.
Ở đây, cũng cần nhắc lại rằng, việc tham dự các Thánh Lễ, đặc biệt các Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, là một điều vô cùng quan trọng và hữu ích cho cuộc sống tâm linh của chúng ta, cả những khi chúng ta không hội đủ điều kiện cần thiết để rước lễ. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ chúng ta sẽ cùng được tham phần vào sự biến đổi từ bánh và rượu thành Mình vào Máu Thánh Chúa, và qua đó, chúng ta sẽ được thánh hóa. Cả “Bàn Tiệc Lời Chúa” qua các bài đọc được trích ra từ Kinh Thánh cũng sẽ mang đến cho chúng ta thức ăn bổ dưỡng cần thiết cho cuộc sống đức tin.
Còn các tín hữu bình thường, tức những người không sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp lệ, cũng cần phải tái xác tín rằng việc rước lễ không chỉ là một bữa ăn Agapê, bữa ăn huynh đệ giữa các tín hữu trong cộng đoàn Giáo xứ, nhưng trước hết là một sự kết hiệp mật thiết và sâu xa nhất với Đức Giêsu Kitô và với Giáo Hội. Việc rước lễ hay rước Mình Thánh Chúa đòi hỏi phải có một sự sửa soạn cần thiết và được gắn liền với những điều kiện tương xứng nhất định, mà người ta không được phép bỏ qua. Về điều này, mỗi người chúng ta cần phải tự vấn lương tâm mình một cách thành thực trước mặt Chúa. Việc rước Mình Thánh Chúa một cách vô ý vô tứ và bất xứng là một việc xúc phạm đến Phép Thánh Thể và chắc chắn không mang lại ích lợi thiêng liêng nào cho linh hồn.
Lm Nguyễn Hữu Thy
_________________________
1. Romeo und Julia (tựa đề bằng tiếng Anh là Romeo and Juliet) là một vở Bi Kịch của William Shakespeare, xuất bản năm 1597. Vở Bi Kịch Romeo và Julia trình bày câu truyện hai tình nhân còn trẻ thương yêu nhau tha thiết. Nhưng đáng tiếc là họ thuộc hai gia đình thù địch nhau, nên họ không thể kết hôn với nhau được. Do đó, Romeo và Julia đã tự tử, và với cái chết của họ đã kết thúc vở thảm kịch. Vở Bi Kịch Romeo và Julia là một trong những tác phẩm nổi danh nhất của Shakespeare và là một trong những câu truyện tiểu thuyết tình cảm danh tiếng nhất trong lịch sử văn chương thế giới. (xem www.absoluteshakespeare.com/plays/romeo_and_juliet.htm.
2. Có lẽ đây là một điều mà người Việt Nam hay gọi là “làm phép giao”.