Các vật dụng phụng vụ -thường được gọi một cách nôm na là "đồ thánh", "đồ lễ", "đồ thờ"- là những vật dụng Phụng vụ dùng để chưng bày hoặc trực tiếp sử dụng trong việc cử hành Thánh lễ, các bí tích và á bí tích. Vì được đưa vào việc cử hành phụng thờ Thiên Chúa, các vật dụng nầy phải xứng đáng, mỹ thuật và chắc chắn.
 |
|
Người phụ trách phòng thánh, ủy viên phụng vụ giáo xứ ,cũng như người giúp lễ, nên biết các vật dụng nầy, để dọn ra khi sắp có cử hành phụng vụ hoặc để giữ gìn cho xứng với mục đích của chúng là phục vụ việc thờ phượng Chúa.
Các vật dụng nầy thay đổi về số và loại theo tính cách của buổi cử hành.
Tập tài liệu nầy chỉ ước muốn được liệt kê một số vật dụng thông thường và ý nghĩa của chúng trong Phụng vụ. Dù thế, vì thời gian hạn chế, vẫn còn những vật dụng khác không được nêu danh. Ước mong sẽ bổ túc trong tương lai.
NB. Vật dụng có chú chữ xiên đặt trong ngoặc đơn, là tên của vật dụng đó trong tiếng Pháp (F), tiếng Anh (E), tiếng Latinh (L).
1. Nhà thờ (F: église, E: church; L: ecclesia)
Trong những thế kỷ đầu, Giáo hội chưa có Nhà thờ, giáo hữu thường tụ họp trong các tư gia, dưới các hang toại đạo để cầu nguyện và cử hành các Bí tích. Danh từ Nhà thờ khi đó được dùng để chỉ cộng đoàn được tụ họp để cử hành Phụng vụ. Đến khi đế quốc Rôma cho tự do tôn giá vào thế kỷ 4, việc xây cất Nhà thờ mới được đặt ra. Các toà nhà được xây cất hoặc được dâng hiến để dùng vào việc thờ phượng Chúa, được gọi là Nhà thờ.
Nhà thờ ngày nay là biểu tượng của Giáo hội (chữ église, church, ecclesia viết thường có nghĩa là Nhà thờ, viết hoa có nghĩa là Giáo hội). Nơi đó, dân Chúa tập họp để nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, cử hành Thánh lễ.
Trước khi sử dụng một ngôi Nhà thờ mới, phải thánh hiến hoặc phải làm phép Nhà thờ đó. Theo Bộ Giáo Luật (GL) khoản 1217, 2 phải cung hiến Nhà thờ Chính toà và Nhà thờ Giáo xứ.
Khi cung hiến, Nhà thờ phải chọn một tước hiệu về Chúa, về Mẹ Maria hoặc về một vị thánh, ví dụ tước hiệu của Nhà thờ Phủ Cam là Đức Mẹ Ban Ơn. Tước hiệu này có thể là bổn mạng Giáo xứ, nhưng cũng có thể chọn một tước hiệu khác với bổn mạng Giáo xứ, ví dụ bổn mạng của Nhà thờ Phủ Cam là hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tuy nhiên, không được lấy tên một chân phước làm tước hiệu Nhà thờ.
Theo GL 1271, 1 đối với Nhà thờ họ nhánh, Nhà thờ tu viện, Nhà thờ của trung tâm hành hương, thì không buộc phải cung hiến, nhưng chỉ cần làm phép.
Khi Nhà thờ đã được cung hiến, thì hằng năm, ngày giáp lễ cung hiến Nhà thờ đó phải là ngày lễ trọng đối với Giáo xứ đó.
Trong mỗi Giáo phận có thể có 5 loại Nhà thờ:
– Nhà thờ Chính tòa (F: Cathédrale; E: Cathedral; L: Cathedralis ecclesia) :
Là Nhà thờ chính của Giáo phận, là nơi đặt ngai tòa của Giám mục Giáo phận. Mỗi Giáo phận chỉ có một Nhà thờ Chính tòa và phải được coi là trung tâm đời sống phụng vụ của Giáo phận. Nhà thờ Chính tòa phải được cung hiến cách trọng thể.
– Nhà thờ Giáo xứ (F: église paroissiale; E: church; L: ecclesia):
Là Nhà thờ chính của một Giáo xứ. Mỗi Giáo xứ chỉ có một Nhà thờ chính, các Nhà thờ khác phải được coi là Nhà thờ họ nhánh (hoặc Nhà thờ giáo họ). Nhà thờ Giáo xứ phải được cung hiến cách trọng thể.
– Thánh điện (F: Sanctuaire; E: Sanctuary; L: Sacrarium) :
Là Nhà thờ gắn liền với một Trung tâm hành hương.
Có 3 loại Thánh điện:
– Thánh điện cấp Giáo phận: do Giám mục Giáo phận xác định quy chế.
– Thánh điện cấp Quốc gia: do Hội đồng Giám mục xác định quy chế.
– Thánh điện cấp Quốc tế: do Toà Thánh xác định quy chế.
– Nhà nguyện (F: Chapelle; E: Chapel; L: Sacellum):
Là Nhà thờ của một tu viện hay của một trung tâm tĩnh tâm. Nhà nguyện không thuộc cơ sở Giáo xứ, nhưng được Giám mục Giáo phận cho phép để một cộng đoàn hay một nhóm người nào đó cử hành Phụng vụ hay cầu nguyện.
– Phòng nguyện (F: Oratoire; E: Oratory; L: Oratorium):
Thông thường là một căn phòng nhỏ, có Bàn thờ và có thể có Nhà Tạm Mình Thánh Chúa. Nơi đó, linh mục có thể làm lễ hoặc một cộng đoàn tu sĩ nhỏ cầu nguyện, chầu Mình Thánh Chúa. Khi dùng một căn phòng làm Phòng nguyện thì luôn luôn phải có phép Giám mục Giáo phận (x. GL 1226).
Trên thế giới, Toà Thánh cũng ban danh tước cho một số Nhà thờ đóng vai trò quan trọng trong một quốc gia hay trong toàn thể Giáo hội. Có 2 danh tước:
Tiểu Vương Cung Thánh Đường (F: Basilique; E: Basilica; L: Basilica)
Danh tước này được ban cho một số Nhà thờ đặc biệt tại các Trung tâm hành hương, như Vương Cung Thánh Đường Lộ Đức, Lisieux, Montmartre ở Pháp; Vương Cung Thánh Đường La Vang, Sài Gòn ở Việt Nam.
Đại Vương Cung Thánh Đường
Danh tước này chỉ được ban cho 4 Nhà thờ ở Rôma:
– Đền thờ Latêranô.
– Đền thờ Thánh Phêrô.
– Đền thờ Đức Bà Cả.
– Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.
2. Thánh giá (F: Croix; E: Cross; L: Crux)
Chúa Giêsu dùng Thánh giá để thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại, nên người Kitô hữu tôn kính Thánh giá cách đặc biệt và gắn Thánh giá ở nhiều nơi. Thánh giá được gắn trên tháp Nhà thờ, trên Cung thánh, trên các tường Nhà thờ đã được cung hiến, trên cổng Nhà thờ, được đeo trên ngực Giám mục và Viện phụ. Thánh giá dẫn đầu các cuộc rước kiệu, được vẽ hoặc thêu trên áo lễ. Người tín hữu chưng Thánh giá trên bàn thờ gia đình, trong phòng riêng, trên bàn làm việc, ghi hình Thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực, đeo Thánh giá trong cổ. Thánh giá còn được ghi trên lễ vật, trên sách Phúc Âm, trên trán người lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Thêm sức, Xức dầu Bệnh nhân, Truyền chức thánh, trên những vật dụng được làm phép. Và Thánh giá cũng được xây trên phần mộ của mọi tín hữu.
Đặc biệt, để biểu lộ đức tin vào giá trị cứu độ của Thánh lễ và để nói lên mối liên kết chặt chẽ giữa Hy tế Thập giá và Thánh lễ, Giáo hội buộc phải chưng Thánh giá mỗi khi cử hành Thánh lễ. Theo Quy chế Tổng quát của Sách lễ Rôma (RM) năm 2000, khi cử hành Thánh lễ, Thánh giá phải luôn luôn có tượng Chúa Giêsu chịu tử nạn, thường gọi là Tượng Chịu nạn hay Tượng Chuộc tội. Tượng Chịu nạn này phải để trên Bàn thờ hay gần Bàn thờ, và phải đặt thế nào cho cộng đoàn trông thấy dễ dàng (RM 122; 308). Do quy định này, khi dọn Thánh giá cho Thánh lễ, Thánh giá phải quay mặt hình Chúa Chịu nạn ra phía cộng đoàn; chỉ trong trường hợp nơi cử hành Thánh lễ đã có một tượng Chúa Chịu nạn quay mặt về phía cộng đoàn (như trong Nhà thờ đã có sẵn tượng Chúa Chịu nạn trên Cung thánh) thì mới có thể quay mặt tượng Chúa Chịu nạn nhỏ trên Bàn thờ về phía chủ tế. Cũng nhằm tránh đặt 2 tượng Chúa Chịu nạn trên Cung thánh, phải cất Thánh giá đi đầu đoàn rước vào phòng thánh sau khi đã kết thúc nghi thức rước kiệu. Trong các lễ trọng, chủ tế xông hương tượng Chúa Chịu nạn ba lần.
Tại các Nhà thờ Việt Nam hiện nay, để tôn kính Thánh giá, Thánh giá luôn được treo cao ở trung tâm bức vách chính của Cung thánh để mọi người nhìn thấy cách dễ dàng và cúi đầu thờ lạy mỗi khi vào Nhà thờ. Cũng vì được treo cao, Thánh giá ít được chăm sóc, dễ bị bụi bám. Người phụ trách phòng thánh phải quan tâm đến sự xứng đáng của Thánh giá và lau chùi sạch sẽ nhất là trong các dịp lễ lớn.
3. Bàn thờ (F: Autel; E: Altar; L:Altare)
Trong tiếng Latinh, từ Bàn thờ (altare) bắt nguồn từ chữ altus, có nghĩa là cao. Ban đầu Bàn thờ hay tế đàn, là một nơi cao dùng để làm điểm liên kết giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với con người. Bởi vậy các ngọn núi hay các quả đồi là những nơi thường được chọn để xây dựng các tế đàn. Nếu gặp một miền đất bằng, người ta cũng đắp một nơi cao để dựng tế đàn, đặt Bàn thờ.
Trong Giáo hội, Bàn thờ là nơi hy tế Thập giá được hiện tại hóa, được tái diễn dưới dấu chỉ Bí tích, đồng thời là bàn tiệc Thánh Thể của Chúa Kitô. Khi cử hành Thánh lễ, Bàn thờ là trung tâm điểm mà mọi người phải hướng đến (RM 259). Trong nghi thức thánh hiến Bàn thờ, Đức Giám mục đổ dầu thánh trên bốn góc và ở trung tâm Bàn thờ và biến Bàn thờ ấy trở thành biểu tượng của Chúa Kitô. Kinh Tiền tụng Phục Sinh V tuyên xưng: “Khi hiến thân cứu độ chúng con, chỉ một mình Người (Chúa Kitô) là Bàn thờ, tư tế và lễ vật”. Khi cử hành Thánh lễ, dân Chúa quy tụ quanh Bàn thờ, như quy tụ quanh Chúa Giêsu. Vì thế, chủ tế bái chào, hôn kính và xông hương Bàn thờ trước khi cử hành Thánh lễ. Giáo hội khuyên nên duy trì truyền thống đặt hài cốt các thánh dưới Bàn thờ cố định.
Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (RM) không cho phép đặt trên Bàn thờ bất cứ vật dụng nào không được trực tiếp dùng để cử hành Thánh lễ (RM 306) như bình hoa, mâm quả, cũng không được đặt tượng Đức Mẹ, tượng các thánh lên Bàn thờ để dâng hoa hay để làm tuần tam nhật, cửu nhật.
Có hai loại Bàn thờ. Bàn thờ cố định là Bàn thờ không xê dịch, thường làm bằng đá hay bằng gỗ tốt và bền. Bàn thờ di động là bàn thờ có thể xê dịch đi nơi khác, làm bằng gỗ thường. Chỉ có Bàn thờ cố định mới được thánh hiến. Bàn thờ di động chỉ cần được làm phép do Giám Mục Giáo phận hay Linh mục Quản xứ (RM 300).
Luật Phụng vụ không quy định hình dáng của Bàn thờ. Do đó Bàn thờ có thể là hình chữ nhật, hình vuông, hình bầu dục, hình tròn. Nhưng tốt nhất là nên chọn hình chữ nhật, vì hình này thuận lợi cho việc bày trí các vật dụng phụng vụ trên Bàn thờ.
4. Khăn Bàn thờ (F:Nappe, E: Altar cloth, L: Tobale)
Bàn thờ luôn được phủ một tấm khăn màu trắng, gọi là khăn Bàn thờ. Theo phép lịch sự đời thường, khi dọn tiệc người ta luôn phủ khăn trên bàn ăn. Khăn Bàn thờ cũng nhắc cho tín hữu biết Bàn thờ là bàn tiệc Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu trở nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn họ. Khăn này phải là khăn màu trắng, vì màu trắng gắn liền với biến cố Vượt qua của Chúa Kitô và với sự Phục sinh của Người. Do đó, dù Bàn thờ được chạm trổ công phu hay bằng gỗ quý thì cũng phải trải khăn trắng khi cử hành Thánh lễ. Không được vì muốn tôn vẻ đẹp của Bàn thờ mà chỉ trải một Khăn thánh khi làm lễ. Tuy nhiên, ở phần rủ của khăn, có thể thêu những hình nghệ thuật thánh để tôn vẽ đẹp cho Bàn thờ.
Người phụ trách phòng thánh nên lưu ý đặc biệt về khăn Bàn thờ:
1. Phải trải khăn ngay ngắn, đường tâm Bàn thờ phải trùng với đường tâm khăn.
2. Phải tẩy các vết bẩn để khăn luôn giữ màu trắng tinh tuyền.
5. Nhà tạm (F: Tabernacle; E: Tabernacle; L: Tabernaculum)
Trong tiếng Latinh, từ Tabernaculum (Nhà tạm) có nghĩa là cái lều, là nơi ở tạm thời. Trong Cựu Ước, Nhà tạm -cũng gọi là trướng tao phùng- là nơi đặt Hòm bia Giao ước, nơi Chúa chọn để gặp gỡ ông Môsê và dân Chúa suốt cuộc hành trình trong sa mạc. Dân coi đó là nơi Chúa ngự.
Từ đầu cho đến thế kỷ 16, trong Nhà thờ Kitô giáo không có Nhà tạm như hiện nay, mà chỉ có nơi cất giữ Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân và những người vắng mặt trong buổi lễ. Giáo dân rước Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ, phần Mình Thánh Chúa còn lại được cất giữ một nơi xứng đáng trong Nhà thờ, để các Phó tế và Linh mục đem đi phân phát cho bệnh nhân và những người già không thể đến dự lễ.
Đến thế kỷ 16 khi Giáo hội phải giáo dục dân Chúa về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể dưới hình bánh và để đáp ứng lòng tôn sùng Thánh Thể của dân Chúa qua việc chầu Thánh Thể, thì việc lưu giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà tạm mới thịnh hành. Các Nhà thờ đều có Nhà tạm, được thiết kế ở một nơi xứng đáng trong một gian nhánh Nhà thờ hay trong Cung thánh.
Quy chế Sách lễ Rôma 2000 quy định ba điểm về Nhà tạm như sau :
1. Nhà tạm phải đươc làm bằng chất liệu chắc chắn (gỗ, kim loại, đá); phải tránh mọi nguy cơ phạm thánh (gắn chặt vào tường, vào đế, có khoá); và không được trong suốt.
2. Có thể đặt Nhà tạm ở một nơi trong gian nhánh hay trong Cung thánh. Nếu đặt trong Cung thánh, thì phải thiết kế đối xứng với nơi đặt sách Thánh Kinh (không phải Thư đài), hoặc chính trung tâm Cung thánh ngay sau Bàn thờ.
3. Dù đặt ở vị trí nào, Nhà tạm cũng phải có một đèn chầu bên cạnh, ngày đêm thắp sáng, để nhắc nhỡ cho mọi người biết sự hiện diện cao trọng của Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.
Trong nhiều Nhà thờ, Nhà tạm được che bằng một tấm vải ở cửa Nhà tạm hay được phủ bằng một tấm vải lớn. Ta gọi đó là khăn Nhà tạm (F: Voile; E: Veil; L: Velum). Khăn này thường được trang trí bằng các hình thêu mỹ thuật. Khăn này làm cho Nhà tạm trở nên như chiếc lều, như căn phòng trong đó có Chúa Giêsu là Đấng “vui thích ở giữa dân Ngài”.
Đối với người phụ trách phòng thánh, cần lưu ý những điểm sau:
– Lau bụi và các vết bẩn, đặc biệt là trên mái Nhà tạm.
– Xem lịch Phụng vụ để dọn khăn Nhà tạm cùng màu với áo lễ.
– Nếu đèn Nhà tạm là đèn dầu, phải châm thêm dầu, khơi bấc và lau khói bám vào bóng đèn. Nếu đèn Nhà tạm là đèn điện, cũng nên dự liệu một đèn dầu, đề phòng khi cúp điện. Phụng vụ không quy định màu của đèn Nhà tạm, nhưng theo truyền thống, nên dùng màu đỏ hoặc trắng và không chói.
– Nên chưng hoa tươi cạnh Nhà tạm, nhất là trong ngày lễ lớn, để nơi Chúa ngự có thêm phần trang trọng, hầu nhắc nhỡ giáo dân ý thức về sự hiện diện và tình thương yêu của Chúa Giêsu là Đấng đã phán: “Này Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
– Vách trong của Nhà tạm thường được lót bằng vải trắng hoặc sơn màu trắng vốn là màu Thánh Thể. Nếu tấm đáy Nhà tạm cũng được lót bằng vải, thì nên dùng đinh cố định tấm vải đó, hoặc thay thế bằng tấm lót đó bằng gỗ mỏng hoặc bằng formica màu trắng, để khi đưa Bình thánh vào Nhà tạm, không làm nhàu tấm vải lót.
6. Chén thánh (F: Calice; E: Chalice; L: Calix)
Được gọi là chén, nhưng Chén thánh có hình dáng một chiếc ly có chân. Chén thánh dùng để đựng rượu nho sẽ trở thành Máu Thánh Chúa, là “Máu Giao Ước mới và vĩnh cữu” của Thiên Chúa ký kết với loài người. Cho nên Chén thánh phải được làm bằng chất liệu quý giá như vàng, bạc và được chạm trổ trang trí mỹ thuật, cho tương xứng với sự cao quý của nó. Cũng để nói lên tính cách xứng đáng của chén đựng Máu Thánh Chúa cực trọng, mà Giáo hội rất khuyên không nên dùng chén thánh bằng pha lê, thuỷ tinh, sành, sứ vốn là những chất liệu dễ vỡ, hoặc bằng các thứ kim loại dễ méo móp.
Mỗi Nhà thờ nên có ít nhất là 2 Chén thánh, một cái dùng tại Bàn thờ chính, một cái dùng cho các Thánh lễ tại nhà giáo dân (như lễ cầu hồn tại gia) và cho Thánh lễ đồng tế. Người phụ trách phòng thánh phải cất Chén thánh vào tủ (có khoá càng tốt), chỉ dọn ra bàn rượu nước khi có Thánh lễ. Khi dọn Chén thánh, nên lau cả bên trong lẫn bên ngoài chén. Đặc biệt Chén thánh bị mòn lớp mạ, cần lau sạch cả bên trong vì nếu không, khăn tuyết rất mau dơ.
Trong các dịp lễ có tổ chức đoàn dâng lễ vật, không nên rót rượu vào Chén thánh rồi trao cho đoàn dâng lễ vật, nhưng nên trao cho họ chai rượu. Nếu đoàn muốn dâng Chén thánh, nên đặt Chén thánh lên khay có phủ khăn, trên Chén thánh đặt Khăn thánh và tấm đậy (palla).
7. Dĩa thánh (F: Patène; E: Paten; L: Patena)
Dĩa thánh có hình tròn và hơi lõm, dùng để đựng bánh lễ sẽ được truyền phép để trở nên Mình Thánh Chúa Kitô. Cũng như Chén thánh, Dĩa thánh cũng phải được làm bằng nguyên liệu quý giá, xứng hợp với công dụng của nó. Người phụ trách phòng thánh phải chuyên cần lau Dĩa thánh như Chén thánh.
Trong các dịp lễ có đoàn dâng lễ vật, thường người ta chọn một Dĩa thánh lớn, có phủ khăn, để đựng bánh lễ lớn. Dĩa này có thể bằng gỗ trang trí mỹ thuật. Cũng nên đặt bánh lễ lên giá đỡ để cộng đoàn dễ nhìn thấy rõ ràng tấm bánh được dâng làm lễ vật.
Trong mùa khí hậu ẩm ướt, phải bảo quản bánh lễ khỏi bị ẩm và mốc, đặc biệt đối với bánh lớn. Nên chia bánh nhỏ thành những gói, bỏ vào bao nilông, buộc kín, rồi cất vào hộp lớn. Khi dùng, chỉ mở lấy số lượng bánh cần dùng; còn đối với bánh lớn, mỗi bánh nên đựng vào mỗi bao nilông riêng và chỉ mở bao nilông ngay trước Thánh lễ.
8. Khăn thánh (F: Corporal; E: Corporal; L: Corporale)
Trong tiếng Latinh, Khăn thánh được gọi là corporale, bởi tiếng corpus có nghĩa là thân mình. Được gọi là Khăn thánh (corporale) vì Mình Thánh Chúa được đặt ngay trên chiếc khăn này. Khăn thánh là khăn màu trắng, hình vuông, gấp thành 9 ô vuông. Ở trung tâm Khăn thánh hoặc ở một trong những ô vuông đó có thêu hình Thánh giá. Khi xếp khăn thành 9 ô vuông, bề mặt hình Thánh giá phải nằm bên trong khăn.
Mỗi khi cử hành Thánh lễ, phải trải khăn này lên Bàn thờ. Chén thánh, Dĩa thánh, Bình thánh phải được đặt trên khăn này. Trong Thánh lễ có đông Linh mục đồng tế, phải trải thêm vài Khăn thánh khác, để các Bình thánh và Chén thánh luôn được đặt trên các khăn này. Thông thường, trong Thánh lễ có đông Linh mục đồng tế, người phụ trách phòng thánh nên dọn ba Khăn thánh. Khăn thánh chính dùng cho chủ tế, hai Khăn thánh khác dùng để trải hai góc Bàn thờ, để đặt Chén thánh và Bánh thánh cho các Linh mục đồng tế rước lễ. Người phụ trách phòng thánh không nên trải Khăn thánh trước lễ. Chính Linh mục sẽ trải Khăn thánh khi đến phần dâng lễ vật.
Khi dọn đồ lễ, người phụ trách phòng thánh đặt Khăn thánh (đã xếp thành chín ô) trên tấm đậy. Tấm đậy (F: Pale; E: Pail; L: Palla) là một tấm hình vuông hoặc tròn, dày và cứng, màu trắng, thường có trang trí mỹ thuật. Tấm đậy dùng để đậy miệng Chén thánh, hầu tránh bụi hoặc côn trùng rơi vào rượu thánh, nhất là khi cử hành Thánh lễ ngoài trời và vào mùa côn trùng nở rộ.
9. Khăn tuyết (F: Purificatoire; E: Purificator; L: Purificatorium)
Trong tiếng Latinh, từ purificatorium đến từ tính từ purus có nghĩa là sạch sẽ và động từ facere có nghĩa là làm. Khăn tuyết là khăn dùng để làm sạch Chén thánh, nên còn gọi là Khăn lau chén. Khăn này màu trắng, có thêu Thánh giá ở trung tâm, hình chữ nhật gấp ba phần bằng nhau theo chiều dọc. Vì dùng để lau khô, nên vải Khăn tuyết phải là thứ vải thấm nước.
Khi dọn đồ lễ, người phụ trách phòng thánh dọn Khăn tuyết ngay trên miệng Chén thánh, dưới tấm đậy và Khăn thánh. Vì khăn này dễ dơ và ướt, ta năng thay khăn. Sau lễ, phơi khăn nơi chỗ thoáng gió để khăn khỏi bị thâm kim.
10. Bình thánh (F: Ciboire; E: Ciborium; L: Ciborium)
Bình thánh có hình dạng một bán cầu có chân, dùng để đựng Bánh thánh phân phát cho giáo dân. Bình thánh có nắp đậy và thông thường có Thánh giá ở đỉnh nắp. Sau phần rước lễ, Mình Thánh Chúa được cất trong Bình thánh, lưu giữ trong Nhà tạm để mọi người tôn kính, kính viếng hoặc để mang cho những người yếu liệt rước lễ.
Có một vật dụng nhỏ dùng để đựng vài bánh thánh cho các người yếu liệt tại tư gia. Đó là hộp đựng Mình Thánh Chúa (F: custode; E: host container; L: custos). Hộp này thường có hình tròn, làm bằng chất liệu bền, chắc như đồng mạ vàng, bạc mạ vàng… . Khi dọn đồ thánh ta đặt hộp này trên Khăn thánh.
Mỗi Giáo xứ, tuỳ số lượng giáo dân mà trang bị nhiều hay ít Bình thánh. Tuy nhiên, cần có một bình dự phòng cho Thánh lễ tại nhà tang.
11. Bình rượu nước, dĩa hứng nước, khăn ngón và dĩa hứng vụn bánh thánh (F: Burette; E: Cruet; L: Ampulla)
Bình rượu (burette d'eau) dùng cho Thánh lễ là một chiếc bình nhỏ, trong suốt, không màu; cũng có thể dùng một chai nhỏ xinh xắn thay thế bình này. Bình rượu thường có nắp đậy hoặc nắp vặn. Những bình nghệ thuật thường có quai cầm và miệng nhỏ chỉ đường rót rượu ra khỏi bình.
Bình nước (burette de vin) có hình dạng như bình rượu, chỉ khác là để đựng nước dùng để pha vào rượu và để tráng chén sau phần Hiệp lễ. Ý nghĩa của giọt rượu pha vào nước được Linh mục đọc thầm: “Nhờ dấu chỉ nước pha vào rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con”. Bình nước cũng được dùng để Linh mục rửa tay sau phần Dâng lễ vật. Ngày nay, có nhiều Nhà thờ dùng một chén riêng để đựng nước rửa tay cho Linh mục. Ý nghĩa việc rửa tay được Linh mục đọc thầm khi ngài rửa tay: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội con phạm, xin Ngài thương thanh tẩy”. Nếu dùng bình nước để rót ra cho Linh mục rửa tay, thì cần một dĩa hứng nước dơ.
Dĩa hứng vụn Bánh thánh (F: plateau; E: communion paten; L: patena) thông thường làm bằng kim loại hoặc gỗ, có hình trái xoan (hình thuẫn), hơi lõm, để hứng các vụn Bánh thánh có thể rơi xuống khi Linh mục cho giáo dân rước lễ. Sau phần rước lễ, chú giúp lễ đặt dĩa nầy lên bàn tráng chén hoặc đặt trên Bàn thờ để Linh mục gạt vụn Bánh thánh vào Chén thánh.
Sau khi rửa tay xong, Linh mục cần một khăn để lau khô tay. Khăn này được gọi là khăn ngón (F: manuterge; E: napkin; L: manutergium) hay khăn tay. Khăn này có hình chữ nhật, màu trắng được xếp thành nhiều lớp, làm bằng vải thấm nước. Trên khăn này không thêu Thánh giá. Sau giờ lễ, nên mở khăn ra phơi nơi thoáng gió để khăn chóng khô. Mỗi Nhà thờ phải có ít nhất vài khăn ngón để thay đổi nhau.
Bình rượu nước và dĩa hứng nước dễ bị bẩn. Mỗi tuần, người phụ trách phòng thánh nên chùi sạch. Ngoài ra, khi cất vào tủ, nên đậy kín bình rượu nước, để tránh gián kiến rơi vào. Nếu có điều kiện, nên có hai bộ bình rượu nước, hai dĩa hứng nước và hai chén đựng nước rửa tay, bộ tốt dùng cho lễ trọng.
12. Nến: (F: Cierge; E: Candle; ; L: Candela)
Ban đầu, nến được sử dụng cho công việc trần thế, như chiếu sáng, tạo bầu khí thân mật, ấm áp. Về sau, người ta thắp nến đốt lửa trong các buổi tế tự lớn nhỏ. Ngay ở Việt Nam, trong các đền chùa, miếu vũ và khi tế tự đều có yếu tố lửa. Lửa này được lưu giữ trên nến, đèn đuốc hoặc trên hương trầm.
Việc thắp đèn nến trong Phụng vụ được bắt nguồn từ Cựu Ước. Thật vậy, trong Đền thờ Giêrusalem, nến sáng nhắc nhỡ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Sách Xuất Hành đưa các chỉ thị rõ ràng và chi tiết về cây đèn bảy ngọn (Xh 25, 31-40): trụ đèn và chân đèn bằng vàng ròng, nhánh đèn bằng vàng gò, có đài hoa, nụ hoa, cánh hoa gắn liền vời trụ đèn; ánh sáng của bảy ngọn đèn phải toả ra phía trước trụ đèn. Kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn cũng bằng vàng ròng. Phải dùng đến 30kg vàng để làm toàn bộ cây đèn bảy ngọn. Sách Xuất hành (Xh 27, 30) còn quy định: “Dầu trong đèn phải là dầu ôliu nguyên chất để đèn luôn luôn có lửa cháy”. Sách Lêvi 24,1-2 viết: “Đèn được đặt bên ngoài bức màn tao phùng, trong lều hội ngộ, sao cho nó luôn luôn cháy từ chiều đến sáng, trước nhan Thiên Chúa". Sách Khải Huyền nhắc tới cây đèn bảy ngọn ở Kh 4, 5 và xem bảy ngọn đèn là bảy thần khí luôn luôn sáng tỏa trước ngai Thiên Chúa.
Trong Phụng vụ Kitô giáo, đèn nến luôn được thắp sáng trong các buổi cử hành, ngay cả khi không cần đến ánh sáng, chẳng hạn khi cử hành các nghi lễ vào ban ngày, nhằm nhắc nhỡ rằng Ngôi Lời nhập thể chính là ánh sáng thế gian (x. Ga 1,4-9), là ánh sáng vĩnh cữu không bao giờ tắt.
Phụng vụ dùng nến trong các dịp sau đây và mỗi dịp lại có ý nghĩa khác nhau:
– Trong lễ Phục Sinh, nến Phục Sinh biểu trưng Chúa Kitô phục sinh. Vì đó, phải xông hương nến và công bố Tin Mừng Phục Sinh cạnh nến.
– Nến sáng được trao cho người tân tòng trong phép Rửa Tội, cho người rước lễ lần đầu và cho người chịu phép Thêm Sức, cho các khấn sinh. Trong các nghi lễ ấy, nến sáng biểu trưng ân sủng của Chúa và biểu trưng chính sự sống của họ trong Hội thánh.
– Nến thắp trên Bàn thờ nói lên lòng tôn kính của tín hữu trước sự hiện diện của Chúa.
– Nến đặt cạnh quan tài nhắc cho tín hữu rằng người chết sẽ có ngày phục sinh trong Chúa, đồng thời cũng nhắc cho các tín hữu còn sống luôn có thái độ tỉnh thức mong chờ Chúa đến.
– Trong Lễ Đèn thứ sáu, thứ bảy Tuần Thánh, Phụng vụ dùng một chân nến năm ngọn. Sau khi nguyện xong một phần thì tắt một ngọn. Cuối cùng chỉ còn lại một ngọn duy nhất và đơn độc. Ngày xưa người ta không tắt ngọn cuối cùng này mà đem cất vào phòng thánh rồi tắt. Hành động này nhằm nói lên Chúa Kitô trở nên trần trụi, đơn độc trong đêm khổ nạn.
- Trong các cuộc rước nến sáng như trong ngày Lễ Nến hoặc trong lễ khấn, nến tượng trưng “con cái sự sáng” (Lc 16,8) đến gặp Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân và ánh sáng vĩnh cữu.
-
Người phụ trách phòng thánh có thể trang trí nến Bàn thờ bằng cách đặt trên giá, trên đĩa, hoặc cạnh bình hoa. Số lượng nến trên Bàn thờ cũng được quy định là số chẵn. Tuy nhiên nếu chưng nhiều nến, số lượng nến cũng có thể là số lẻ. Nên gỡ bỏ các dòng nến chảy ra quanh nến, và cắt tim nến vừa phải, để nến trên Bàn thờ luôn được sạch sẽ, gọn gàng. Ngày nay, cây nến còn có giấy bọc quanh, trong suốt, ta phải cắt phần giấy dư, không để lửa bắt vào, tỏa mùi khó chịu. Khi tắt nến, ta nên dùng chụp nến, tránh trực tiếp thổi vào nến đang cháy vì có thể làm nước nến văng xuống Khăn Bàn thờ.
13. Hoa: (F: Fleur; E: Flower; L: Flos)
Bông hoa tươi thắm luôn tạo nên cảm giác vui tươi và hân hoan. Mỗi loại hoa và màu sắc của nó có một ngôn ngữ và ý nghĩa riêng, do con người cảm nhận rồi quy ước. Các quy ước này không có tính nhất quán cao, vì mỗi dân tộc và mỗi thời đại có thể có cảm nhận khác nhau về ý nghĩa của từng loại hoa. Nhưng chung chung, ta có thể tìm thấy các ý nghĩa như sau:
1. Hoa hồng: lòng ái mộ, tình yêu mãnh liệt.
Hồng trắng: tình yêu trong sáng, cao thượng.
Hồng vàng: tình yêu rực rỡ.
Hồng phớt: tình yêu mơ mộng.
Hồng thẫm: tình yêu nồng cháy.
2. Cẩm chướng: lòng quý mến.
Cẩm chướng đỏ: lòng tôn kính.
Cẩm chướng hồng: ngày của mẹ.
3. Cúc: cao thượng.
Cúc đại đoá: vui mừng.
Cúc vàng: chân thật, vui vẻ.
Cúc trắng: ngây thơ, duyên dáng.
Cúc tím: lưu luyến khi chia tay.
Cúc đồng tiền: trường thọ.
4. Sen: độ lượng, bác ái
Sen trắng: cung kính, tôn nghiêm.
Sen hồng: hân hoan, vui tươi.
5. Thược dược: tươi thắm, yêu thương.
6. Huệ: trong sạch, thanh cao.
7. Lan: thanh cao, nhiệt tình.
8. Quỳnh: thanh khiết.
9. Đồng tiền: may mắn, sung túc.
10. Layơn: niềm vui, thành thật, cao quý.
11. Violet: Tình yêu chân thực, khiêm tốn, giản dị, trung thực.
12. Anh đào: nét đẹp tâm hồn.
13. Súng: yêu thương chung thuỷ.
14. Mai: cứng rắn, không chịu khuất phục.
15. Mào gà: tình yêu bền vững.
16. Liễu rủ: buồn thương.
17. Hoa ly: trong sáng, thanh cao.
18. Nguyệt quế: chúc mừng thành công.(theo internet)
Ở Việt Nam, thôn quê không có sẵn hoa như thành phố. Nhưng nếu có điều kiện kinh tế, nên chọn loại hoa phù hợp với ý nghĩa ngày lễ. Tuy Phụng vụ không quy định hoa thật hay hoa giả, nhưng nên tránh chưng hoa giả. Trong trường hợp thiếu hoa thật, có thể dặm thêm hoa giả vào bình hoa thật. Lối bài trí hoa trên bình hoa cũng phải phù hợp với Phụng vụ, do đó trong nhiều trường hợp, không thể lấy một bình hoa ở phòng khách, phòng ăn đem chưng ở Cung thánh. Cũng không nên chưng bình quá lớn, rườm rà, vì vô tình có thể trở thành đối tượng chú ý của ngày lễ. Cũng không nên uốn các bình hoa theo hình con thú, các vật biểu tượng, mà phải tôn trọng nét đẹp tự nhiên của cành lá bông hoa.
Vì chưng hoa là để trang trí cho cuộc cử hành Phụng vụ thêm trang trọng huy hoàng, nên các bình hoa không được làm lu mờ vị trí của Bàn thờ, Chủ tế, Chén thánh, Thư đài và đồng thời, không gây cản trở cho việc đi lại trong cung thánh. Quy chế Sách lễ Rôma 2000 không cho phép đặt các bình hoa trên Bàn thờ. Vậy chỉ được chưng chung quanh hoặc trước Bàn thờ mà thôi. Mùa Chay, trừ Chúa nhật 4 Mùa Chay và lễ trọng trong Mùa Chay, không được phép chưng hoa trước Bàn thờ. Cùng chỉ được chưng hoa vừa phải trong Mùa Vọng, để hướng tất cả sự hân hoan vào ngày lễ Chúa Giáng Sinh (RM 305).
14. Hương trầm: (F: Encens; E: Incens; E: Incense)
Xông hương, dâng hương trong Phụng vụ có hai ý nghĩa chính:
1. Tỏ lòng tôn kính hoặc khơi dậy lòng tôn kính đối với đối tượng được xông.
2. Biểu trưng cho lời cầu nguyện bay lên trước tôn nhan Chúa (Tv 140,2; Kh 8,3).
Ở Việt Nam, có bốn loại hương thơm thường dùng trong nghi lễ:
a. Nhang:
Nhang là những thẻ tre (cho nên cũng có tên là nhang thẻ) phần trên có bột thơm, phần dưới dùng để cầm. Bột nầy thường có ba màu tạo nên ba loại nhang khác nhau: vàng tươi, nâu sẫm, đỏ sẫm. Ba loại nhang này rất phổ biến, có thể dùng trong Phụng vụ. Loại nhang lớn màu đỏ sẫm thường được dùng trong các dịp long trọng. Ngoài ra, cũng có loại nhang pha hạt sáng. Khi lửa cháy đến hạt, hạt lóe sáng vui mắt. Loại này không dùng trong Phụng vụ vì gây chia trí. Các đền, chùa còn dùng một loại nhang hình xoắn ốc. Nhờ hình xoắn ốc, thời lượng cháy lâu hơn so với nhang thẻ. Hiện nay trong các Nhà thờ Việt Nam không dùng loại nầy, nhưng Phụng vụ không cấm.
Để cắm nhang thẻ, người ta thường không dùng lư hương nhưng dùng một vật dụng gọi là bát nhang, trong đó đổ cát hoặc gạo để dễ cắm. Tuy nhiên một số Nhà thờ Công giáo lại có thói quen cắm nhang trên lư hương. Chưa có nghiên cứu nghiêm túc nào xác định việc cắm nhang trên lư hương là sai lệ. Tuy nhiên phổ biến trong dân gian vẫn là cắm nhang trên bát nhang.
Mỗi lần dâng hương, người ta thường dâng theo số lẻ nghĩa là dâng 1, 3, 5, 7 thẻ nhang, không bao giờ dâng theo số chẵn. Theo quan niệm dân gian, số lẻ là số dành cho thần linh trong đó có cả linh hồn người chết. Cũng có quan niệm cho rằng đời sống con người có bốn sự kiện cơ bản: sinh, lão, bệnh, tử. Số lẻ là số sinh hoặc bệnh; số chẵn là số lão hoặc tử , lão và tử là hai điều kỵ, nên tránh. Nhưng khi dâng một nắm gồm nhiều thẻ nhang, người ta không còn lưu ý đếm số lượng thẻ nhang là chẵn hay lẻ.
b. Trầm:
Trầm được tạo ra do nhựa cây dó kết tinh lâu năm, rất thơm. Mùi thơm của trầm không quyến rũ như mùi nước hoa, nhưng thâm trầm, lắng đọng, dễ đưa tâm trí thoát tục đi vào chiều sâu và vươn lên cõi linh thiêng .
Nhựa trầm khi bỏ vào nước thì chìm, do đó có tên là trầm. Trầm ròng (còn gọi là kỳ nam) rất đắt tiền, nên dân gian thường dùng giác trầm. Giác trầm là những đoạn gỗ ở gần chỗ có trầm ròng hoặc những mảnh gỗ có nhiều nhựa trầm, khi đốt lên vẫn toả ra mùi thơm của trầm. Trong các buổi cử hành Phụng vụ, giác trầm được bỏ vào lư hương, đốt lên để toả khói trắng và hương thơm. Để tiết kiệm, người ta cũng bỏ giác trầm vào lư hương nhỏ đặt trong lòng lư hương lớn.
c. Hương nụ:
Có nơi, người ta dùng hương nụ thay cho giác trầm, vì hương nụ cháy lâu hơn giác trầm và trông gọn gàng hơn. Hương nụ là bột hương được ép thành nụ có hình trụ chóp nón. Hương nụ cũng được đặt vào lư hương nhỏ và được đốt lên để toả mùi thơm và khói trắng trong nghi thức dâng hương.
Khi dùng lư hương nhỏ đựng trầm, giác trầm, hương nụ trong nghi thức dâng hương, chủ tế thường cầm lư hương vái một hoặc ba vái, rồi đặt lư hương nhỏ vào lư hương lớn. Trái lại, trong dân gian, người ta chỉ vái khi dâng nhang, không bao giờ cầm lư hương mà vái. Chưa có một nghiên cứu nghiêm túc nào xác định việc cầm lư hương mà vái là sai lệ, cử chỉ này cũng cần phải được nghiên cứu thêm.
d. Hương bột:
Hương bột là hương dạng bột hoặc hạt nhỏ. Có thể làm hương bột bằng cách tán nhỏ chai phà, giác trầm, kỳ nam, nhựa thông, sáp ong hoặc bất cứ một loại nhựa cây nào có mùi thơm và tỏa khói trắng.
Bột hương được đổ vào một vật dụng gọi là tàu hương có dáng một chiếc xuồng nhỏ. Trong tàu hương luôn có muỗng nhỏ để múc bột hương đổ vào than hồng. Trong buổi cử hành Phụng vụ, chủ sự dùng muỗng lấy hương bột đổ vào lư hương trước Bàn thờ, hoặc đổ vào bình hương xông.
Bình hương xông (F: encensoir; E: censer; L: thuribulum) gồm phần thân đựng than hồng và phần dây treo gồm ba sợi. Nắp bình hương có thể di chuyển lên xuống nhờ một sợi dây thứ tư. Chú giúp lễ kéo nắp bình lên cho chủ sự bỏ hương, rồi lại thả dây cho nắp bình rơi xuống đậy trên bình. So với bát nhang và lư trầm, sử dụng bình xông có lợi là có thể xông Bàn thờ, bánh rượu, Thánh giá, sách Phúc Âm, Chủ tế, các Linh mục đồng tế và cộng đoàn, trong nghi thức an táng có thể xông linh cửu và trong phép lành Mình Thánh Chúa có thể xông Mình Thánh Chú, trong buổi canh thức Phục Sinh có thể xông nến Phục Sinh.
Về hương trầm, người phụ trách phòng thánh cần lưu ý những điểm sau:
a. Về nhang: Phải chọn loại nhang khi đốt lên thì toả mùi thơm dịu, không khắt. Đồng thời, phải chọn loại nhang mà thẻ nhang khá cứng, để nhang không nghiêng ngã khi cắm vào bình nhang. Lúc dọn nhang luôn dọn lẻ.
b. Giác trầm: Phải chọn loại giác ngửi thấy mùi thơm rõ nét.
c. Hương nụ: Có những loại hương nụ rất thơm nhưng mùi thơm không phù hợp với Phụng vụ, như mùi dầu xả hoặc mùi nước lau nhà.
d. Bột hương: Dù ở thành phố hay thôn quê, đều có thể tự chế bột hương để có mùi thơm và bốc nhiều khói trắng, bằng cách tán nhỏ chai phà và nhựa thông.
e. Than: Nên mua dành sẵn than hoạt tính mà người ta thường gọi là than phụng vụ. Loại này rất dễ bắt lửa, cháy lâu và chỉ tắt khi đã cháy hết than.
f. Bình xông hương: Bình xông hương có bốn dây khá dài, dễ bị rối. Do đó, trước và sau khi dọn, luôn luôn treo bình lên móc, không đặt bình hương lên bàn.
g. Tàu hương: Trước mỗi lễ, nên kiểm tra bột hương và muỗng trong tàu hương. Các chú giúp lễ có thể làm đổ bột hương do vô ý cầm nghiêng tàu hương.
15. Mâm quả (mâm trái cây): (Plateau de fruits)
Theo phong tục Việt Nam, trong các buổi tế tự – như lễ tang, lễ giỗ và lễ Tết- đều có mâm quả chưng trên bàn thờ làm lễ vật.
Sỡ dĩ người Á Đông dâng quả vì họ quan niệm rằng quả trọng hơn hoa. Quả là sự thành tựu của hoa. Hoa chóng tàn còn quả bền lâu. Hoa chỉ khoe sắc và mùi, quả mang hạt phát sinh sự sống mới. Quả là thức ăn nuôi sống, còn hoa chỉ để ngắm và ngửi, không thể dưỡng nuôi sự sống.
Người ta thường dâng các loại quả theo số lẻ: 1, 3, 5 loại quả. Với lòng thành, người ta có thể dâng bất cứ loại quả nào. Tuy nhiên, trên thực tế có một số loại quả không bao giờ xuất hiện trên bàn thờ dân gian như mít, chanh, các loại bí, cà, dưa (trừ dưa hấu), mướp, vả, ớt và các loại củ. Có lẽ vì tên gọi hoặc hình dáng các loại quả nầy gợi lên âm thanh hoặc hình ảnh không xứng hợp với lòng tôn kính đối với thần linh và đối với người đã khuất.
Theo phong trào hội nhập văn hóa và vì tính cách biểu trưng công lao khó nhọc của con người, Phụng vụ Việt Nam chấp nhận mâm quả trong các lễ vật dâng tiến lên Bàn thờ. Người phụ trách phòng thánh nên ràng buộc các quả trên mâm bằng băng keo trong để quả khỏi rơi, hoặc tốt hơn, sau đó, còn đặt mâm quả trong giấy gói trong suốt, mỹ thuật. Vị trí đặt mâm ngũ quả thông thường là trước Bàn thờ, trên đôn thấp, cạnh bộ tam sự.
Linh mục Antôn Dương Quỳnh