Giải rõ Kinh Thánh bởi các phong tục và lề thói hiện thời ở các xứ có chép trong Kinh Thánh, – đó là luận đề của quyển sách này
Thánh Kinh Phong Tục
Mục Lục
C h ư ơ n g T h ứ N h ứ t
Tiểu dẫn
C h ư ơ n g T h ứ H a i
Khí hậu, thời tiết, phong cảnh
C h ư ơ n g T h ứ B a
Người chăn chiên và dân quê
C h ư ơ n g T h ứ T ư
Các nghề nghiệp
C h ư ơ n g T h ứ N ă m
Sự sinh hoạt trong gia đình và những dây liên lạc trong gia đình
C h ư ơ n g T h ứ S á u
Xã hội, chính trị và tôn giáo
C h ư ơ n g T h ứ N h ứ t
T i ể u D ẫ n
"Người sanh trước anh một ngày ắt khôn hơn anh một năm"
Tục ngữ xứ Sy-ri ngụ ý phải kính trọng người già cả.
1. Luận đề. – Giải rõ Kinh Thánh bởi các phong tục và lề thói hiện thời ở các xứ có chép trong Kinh Thánh, – đó là luận đề của quyển sách này.
Trong xứ Pha-lê-tin và xứ Sy-ri kim thời có nhiều sự thuộc về khí hậu, phong cảnh, cây cối, thú vật, cùng thói quen, công việc, y phục và ngôn ngữ của cư dân, vẫ đúng in như xưa kia Kinh Thánh đã ghi chép.
Trải qua một thời gian dài đằng đẵng mà phong tục vẫn y nguyên không đổi, kỳ lạ như thế là vì những duyên cớ hệ trọng sau này:
(1) Cư dân xứ Ca-na-an hiện nay có liên lạc về huyết thống với người Y-sơ-ra-ên thuở xưa;
(2) Tiếng Hê-bơ-rơ giống hệt với tiếng A-rạp, là tiếng cư dân đương dùng;
(3) Phong tục xưng hiệp với khí hậu cùng các kỹ nghệ trong xứ;
(4) Cư dân không thích và không chịu thay đổi chính thể tộc trưởng, theo chính thể ấy thì các sheikhs, hoặc người đứng đầu các gia tộc cường hào, cứ cha truyền con nối cai trị nhiều địa phương.
Cảnh trí thiên nhiên, y phục, công việc, dư luận dân chúng, quan niệm về đời sống, công việc, gia đình và tôn giáo, ngày nay thật giống như xưa, đến nỗi nếu các sự ấy lại diễn ra trong xứ Pha-lê-tin và các lẽ thật của Kinh Thánh bây giờ mới được rao truyền lần thứ nhứt, thì sự mô tả và công bố không khỏi đúng như khuôn mẫu chúng ta đã quen biết trong Kinh Thánh.
2. Sách này hệ trọng thể nào? – Kê cứu các phong tục và lề thói trong Kinh Thánh, thì được ba điều lợi cốt yếu:
(1) Nó giúp ta hiểu rõ hơn đời sống và tánh tình của những nam, nữ danh nhân trong Kinh Thánh.- Kê cứu loài cây cối và súc vật, nhà bác học nhận biết nguyên tắc nầy: Các loài ấy trước hết vì mình mà sống, rồi sau cùng mới ứng dụng vào những sự nhu cầu của chúng ta. Như vậy, màu và hương của đóa hoa, mật của con ong, điểm óng ánh trên cành của con chim, ngà của con voi, "các dấu hiệu riêng" của con bò câu và con sơn dương, – ta chỉ có thể cắt nghĩa những cái đó theo nguyên tắc rằng nó trước hết giúp ích cho các sinh vật và thực vật có nó, rồi sau mới được đánh giá cao trên thị trường và dùng làm món ăn, áo mặc cho chúng ta. Cũng một lẽ ấy, chúng ta chẳng nên từ chối không cho những nhơn vật trong Kinh Thánh được quyền trước hết vì chính mình mà sống. Chúa dùng họ để giục lòng và răn dạy hậu thế, nhưng họ thật có cuộc đời cá nhânmà họ đã sống trong chính thời ấy, – các cơ hội và bước khó khăn đương thời ấy đã có ảnh hưởng trên đời họ. Chúng tôi muốn luận về các nhân vật ấy, chẳng phải như những tên trong sách, song như những người thật đã sống. Nếu trước hết họ không sống trong thời đại mình và vì thời đại mình, ắt họ cũng không sống vì chúng ta. Chúng ta càng biết cuộc bình sinh của họ và các tình trạng của bình sinh ấy, thì càng hiểu những việc mà Lời Đức Chúa Trời đã làm cho họ và bởi họ.
(2) Nó giải nghĩa và làm nổi những lời nói bóng của Kinh Thánh.- Như vậy, khi Đấng Christ phán rằng: "Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh", và rằng: "Ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được" (Giăng 15:5), thì trong hai trường hợp ấy Ngài đều tỏ ra cái lẽ nhờ cậy, nhưng trong trường hợp thứ nhứt, Ngài dùng một hình bóng, tức là gốc nho và nhánh. Ai muốn nêu cao sự so-sánh ấy lên và tỏ cho kẻ khác thấy những lẽ thật thiêng liêng dầy đủ, thì nên đi thăm một vườn nho và xem xét công việc của người trồng nho khi cày đất, tỉa cành, đóng cọc và hái quả, vân vân. Nhờ cách đó, ta sẽ hiểu rất rõ ý nghĩa từ Đấng giảng dạy truyền qua kẻ nghe khi Ngài dùng các tiếng ấy lần thứ nhứt.
Người phương Đông rất ham chuộng và hay dùng lối nói hình bóng như thế. Họ có thể dùng những danh từ chuyên môn và trừu tượng; cần nhứt phải xác thực, nhưng họ dùng theo nghĩa bóng khi muốn gợi tư tưởng, hứng-thứ và muốn thuyết phục. Vậy nên khi ta nói: "Sự cần yếu không có luật pháp," thì họ nói: "Đói là một kẻ vô tín," nghĩa là: "Kẻ đói không ngần ngại trái phạm luân lý." Họ nói rằng: "Tay hắn mạnh" để tỏ ra một người nào đó được chủ tin cẩn. Cách lý luận đanh thép hơn hết ở phương Đông là tỏ ra rằng một đặc điểm của hành vi hoặc của tâm tánh phù hợp với một vật gì trong cỏi thiên nhiên. Cả trong tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng A-rạp, tục ngữ có nghĩa là giống, và sự giống ấy là gốc rễ của tất cả châm ngôn phương Đông. Khi giảng đạo, nếu giáo sĩ trưng dẫn một tục ngữ xứng hợp như thế, thì sẽ được thính giả chăm chú và tin-cậy cái điều ông dựa theo tục ngữ ấy mà giải luận. Khi Đấng Christ dạy-dỗ và có ảnh hưởng đến dân chúng, bởi những thí dụ kỳ diệu, thì Ngài dùng "bùa ếm" của sự tương tựa và năng lực của lối văn tục ngữ đó. Ngài chỉ vào những sự vật trong cỏi thiên nhiên, những thói tục và công việc mà thính giả quen biết; như vậy, những kẻ có mắt, có tai bèn vừa khâm phục, vừa vui thích nhận thấy rằng lời Ngài phán có chỗ giống với một vật trong cõi thiên nhiên. Ngoài ra quyền phép do thánh đức và từ tâm của Ngài, sự Ngài dụng ý như thế là một việc khôn khéo sinh ra hiệu quả soi sáng trí khôn kẻ nghe. Đương khi họ chăm chú và có thiện cảm với một truyền thuộc về đời sống và công việc của loài người, thì trước mắt họ hiện lên sự Cứu rỗi, sự Thánh khiết và sự Hầu việc. Tuy vậy, hai cái vẫn giống nhau. Vì Kinh Thánh đầy dẫy cách nói hình bóng như thế, nên khi đọc Kinh Thánh, chúng ta cần biết những sự vật, cơ hội và phong tục làm gốc rễ cho những lời chép trong Kinh Thánh.
Kê cứu các cổ tích trong Kinh Thánh như vậy sẽ luôn luôn tỏ ra một phương diện mới mẽ. Đang khi xem xét cuộc sinh hoạt ở phương Đông trong đó có Đức Chúa Jêsus đã tìm thấy những sự tương tựa mà Ngài có cần đến, chúng ta cũng phải cố bắt chước Ngài mà tìm thấy những sự tương tựa đó trong chính cuộc sinh hoạt của mình. Những thí dụ như thế hiện lên như chớp nhoáng trong tấm lòng đầy dẫy tình yêu thương đối với Ngài và đầu phục trọn vẹn để hầu việc Ngài. Bấy giờ những việc nhỏ mọn mà trước kia ta không để ý tới sẽ "đứng lên" và "đi" trong các thí dụ. Nhiều việc nhỏ mọn trong cuộc sinh hoạt hằng ngày của chúng ta sẽ được ánh sáng thiêng liêng mới mẻ chiếu vào, và bắt đầu nói bằng những miệng lưỡi khác.
(3) Nó giải nghĩa sự tương quan giữa các yếu tố của Đức Chúa Trời và của loài người trong Kinh Thánh.- Điều nầy hệ trọng vì cớ hai lẽ sai lầm. Vì cớ trong Kinh Thánh có rất nhiều điều đầy tính cách phương Đông, nên một vài người dám tuyên bố rằng Kinh Thánh hoàn toàn là văn chương trần gian, và cho lời quả quyết rằng Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời bất-quá như hàng nội-hóa mạo nhận là hàng ngoại-quốc. Kẻ khác lại coi động-lực của loàn người ở trong Kinh Thánh như dân Y-sơ-ra-ên coi dân Ca-na-an ở trong Đất Hứa; phải tránh xa và trừ diệt đi. Lời tuyên bố ấy có ý làm cho Kinh Thánh hóa ra không chân chính và vô vị, chẳng qua như một sự bí mật trong tay một hạng người đặc biệt. Thật ra thì Lời Đức Chúa Trời bao giờ cũng là một nơi thánh, một hiện diện thánh, có loài người đi lại chung quanh và cốt để giúp ích loài người. Khi dân Y-sơ-ra-ên qua đồng vắng, Lời Đức Chúa Trời đã đóng vai trò quan trọng như thế. Quả thật khi ấy có một nơi mà ít người đến được, nhưng nơi ấy ở trong Đền tạm của hội chúng. Cũng như Ngôi lời Hằng sống, Kinh Thánh "ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian." Đức Chúa Trời cũng truyền cho tín đồ phải cư xử như vậy.
Lời nói thích đáng của loài người phải có những điều kiện xứng hợp về thì giờ, nơi chổ và trường hợp. Lời Đức Chúa Trời phán với loài người cũng phải như vậy. Người ta đặt quả táo bằng vàng ở trên đĩa bạc tinh xảo. Đĩa cũng bằng kim khí quí giá; muốn làm nên nó, phải dùng nhiều thỏi bạc, nung đúc cho đẹp đẽ và hữu ích. Nhưng mục đích của nó là để hầu việc, và nó kém quả táo bằng vàng. Cũng vậy, lời khải thị chói sáng trong một cái "đĩa" làm bằng tính cách loài người, công việc gia đình, phong tục xã hội; nó cũng chói sáng giữa khí hậu, xứ sở và chủng tộc đặc biệt.
Khi ta đã nhận biết các yếu tố của loài người ở trong giới hạn của nó, thì đồng thời ta lại nhận biết càng rã ràng hơn cái quyền phép thiêng liêng hành động ờ trong Kinh Thánh và bởi Kinh Thánh, mặc dầu Kinh Thánh được ta đặt tên là gì, giải nhgĩa thế nào và luận theo những lý thuyết nào. Đằng sau Kinh Thánh vẫn có vô số người làm chứng, và Kinh Thánh vẫn nâng đỡ con cái Đức Chúa Trời và khiến họ nên thánh. Đương khi gắng sức để biết rõ hơn về các vai chủ động trong Kinh Thánh, để hiểu rõ hơn cách nói thiêng liêng trong Kinh Thánh, để học biết thể nào là ân điển Đức Chúa Trời đã chứa trong các bình bằng đất, thể nào quyền phép Ngài lưu qua loài người như nước chảy qua sông đào, thì chúng ta được hứng-thứ và ích lợi bởi kê cứu về khí hậu, tình hình, những phong tục còn sót, những sự mê tín thông thường, những tục ngữ phổ thông của dân chúng đương sống trong xứ thánh.
3. Sắp đặt.– Trong khi khảo sát các thí dụ và hình bóng trong Kinh Thánh, chúng tôi phải mô tả hình thể thiên nhiên của Xứ Thánh: Ở địa giới có đồng bằng và thung lũng, còn ở trung ương thì có đồi, núi. Ấy là chúng ta phải kê cứu:
(1) Phong cảnh, khí hậu và thời tiết trong xứ Pha-lê-tin.
(2) Đời nông phu và mục đồng.
(3) Các nghề nghiệp.
(4) Gia đình và tình máu mủ.
(5) Đại lược tình hình xã hội, chính trị và tôn giáo trong xứ Pha-lê-tin.
4. Có một điều kiện hệ trọng, nếu thiếu thì cuộc viễn du này sẽ mất hứng thú và vô ích nữa. Ấy là khi xem xét Xứ Thánh, chúng ta cũng phải ham thích một cuộc đời thánh. Một ngày kia, có hai người bạn đến thăm Turner, một nhà họa sĩ trứ danh, để xem các tác phẩm của ông. Ông bảo đầy tớ dẩn họ vào ngồi trong phòng tối một lúc, rồi mới đưa họ lên lầu, vào phòng vẽ. Bấy giờ ông xin lỗi họ về cái cử chỉ dường như khiếm nhã kia; ông nói rằng mắt họ phải thôi tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài, rồi mới xem rõ màu sắc các tác phẩm của ông được. Vậy, chúng ta hãy dọn sẵn tấm lòng bởi cầu nguyện trong phòng kín và suy gẫm về cuộc đời thánh khiết.
C h ư ơ n g T h ứ H a i
K h í H ậ u, T h ờ i T i ế t, P h o n g C ả n h
"Phong tục là nguyên tố thứ tư trong vũ trụ"
Tục-ngữ xứ Sy-ri.
Dẫu chịu ảnh hưởng lớn do kỹ nghệ và các chế độ, những cuộc sinh hoạt trong xứ Pha-lê-tin vẫn còn có quan hệ mật thiết với những điều kiện thiên nhiên ở ngoài quyền kiểm soát của loài người, tỉ như khí hậu và thời tiết. Người A-rạp ngày nay nhận biết lẽ đó khi họ nói rằng vũ trụ cấu tạo bằng đất, khí trời, lửa, nước, – và phong tục. Vì Kinh Thánh thường nhắc đến khí hậu và phong cảnh xứ Pha-lê-tin, nên nếu ta biết rõ hai cái đó, ắt sẽ để ý đến và biết đúng nghĩa của Kinh Thánh.
1. Khí hậu.- Pha-lê-tin là một xứ có mặt trời chói sáng, ai nấy có thể sống nơi không khí quang đãng. Dẫu mấy tiếng thường dùng: "Từ Đan đến Bê-e-sê-ba" chỉ bao hàm một miền đất nhỏ bằng quận Galles của nước Anh, nhưng thời thiết thay đổi khác nhau nhiều lắm, vì đất đai cao, thấp không chừng: Núi Hẹt-môn phủ tuyết giữa mùa hạ, cao hơn mặt biển ngót ba ngàn thước; còn Biển Chết lại thấp hơn mặt biển hơn 400 thước. Nhưng, trên hết mọi sự, Pha-lê-tin có đặc sắc là một xứ có bầu trời xanh biếc và ánh nắng mặt trời. Tuyết không sa xuống trên đồng bằng dọc theo bờ biển, và mặt trời chói sáng không dứt từ đầu tháng năm đến cuối tháng chín. Vậy nhơn dân có hội hợp rất đông đảo tại Giê-ru-sa-lem để dự lễ này lễ khác, và cũng có thể ở lâu với Đấng Christ trong các nơi vắng vẻ.
2. Thời tiết. – Tính trong một năm, thì tháng ngày kế tiếp nhau mà nóng hoặc lạnh cũng như ở nước Anh, duy ở xứ Pha-lê-tin thì bao giờ cũng nóng hơn nhiều. Bốn mùa không phân chia rõ rệt như trong các xứ ở quá về phương Bắc. Các đặc sắc hệ trọng một năm thì ta đã thấy trong lời Đức Chúa Trời hứa với Nô-ê – "Mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng mùa đông" (Sáng thế ký 8:22). Mùa không mưa chiếm hết từ năm đến bảy tháng, và dân A-rạp thường nói một năm là mùa hạ và mùa đông. Muà xuân có tên đặc biệt là "mùa lớn lên", nhưng mùa thu thì khác bên Âuchâu: Ở Âu châu thì khi ấy quả nho, quả ô-li-ve và các thứ quả khác chín, nhưng ở xứ Pha-lê-tin mùa gặt ngũ cốc lại vào tháng năm và tháng sáu. Đó chính là mùa gặt hái có nói đến ở Giô-suê 3:15 và I Sa-mu-ên 12:17. Cũng cách ấy, khi nói đến mùa gặt, đấng tiên tri cũng theo thứ tự của sự vật, vì ông nói rằng: "Mùa gặt đã qua, mùa hạ đã hết" (Giê-rê-mi 8:29).
3. Tháng.- Luận qua về mỗi tháng, chúng ta sẽ thấy một năm đem lại những gì cho người già, người trẻ trong xứ Pha-lê-tin.
(1) Tháng giêng.- Tháng này lạnh hơn hết, có những ngày tối tăm hơn hết và những trận mưa nặng hạt hơn hết. Mưa sa trên núi Li-ban và trên những dãy núi cao hơn hết, và cứ đóng ở đó cho đến khi tiết nóng tháng ba, tháng tư làm cho tan chảy, đổ vào các ngọn suối cho dân chúng dùng trong mùa hạ.
(2) Tháng hai.- Mưa dào và trời nắng kế tiếp nhau mau chóng. Người A-rạp gọi tháng hai là "anh một mắt", – là bộ mặt một bên tối, một bên sáng. Họ cũng nói rằng: "Tháng hai chẳng có luật lệ nào cả"; và rằng: "Mặc dầu tháng hai có bảo tố kinh động, nhưng nó cũng có mùi vị mùa hạ". Cây hạnh nhân trổ hoa, và người ta cũng gieo lúa mạch nha.
(3) Tháng ba.- Gió to nhưng cũng nắng hơn. Mưa dào tháng ba tháng tư tức là "mưa cuối mùa" của Kinh Thánh, (xem Giê-rê-mi 3:3; 5:24), thường không thấu đến rễ đâm sâu của các cây có quả, nhưng nhuần tưới những cánh đồng lúa mạnh nha và lúa miến trước khi nó chín trắng xóa, sẵn sàng để gặt hái. Nhưng có khi tháng nầy trời mưa to hơn hết. Cây mơ cũng "trang sức màu trắng" như cây hạnh nhân, chẳng khác chi những hàng rào sơn tra tử (aubépine) ở nước Anh vậy.
(4) Tháng tư.- Tháng này hoa đua nở, đất đai trông xanh tươi và đẹp đẽ hơn mùa nào khác trong cả năm. Thỉnh thoảng luồng gió nóng và hanh từ sa mạc xứ Sy-ri thổi vào, có khi suốt ba ngày, làm cho tuyết tan chảy và mọi loài thảo mọc mau lớn. Mùa gặt bắt đầu ở thung lũng sông Giô-đanh và ở đồng bằng gần bờ biển. Các thứ cây có quả – như táo, lựu, ô-li-ve, v. v… – thường nẩy hoa và lá tươi.
(5) Tháng năm.- Mặt trời nóng hơn; không mưa chừng năm tháng. Hoa rụng, cỏ khô. Mùa gặt ở đồng bằng và thung lũng. Các quả mùa xuân đã chín, tỉ như hạnh nhân, mơ và mận. Cây nho trổ hoa.
(6) Tháng sáu.- Mùa gặt cứ tiến hành ở miền đất cao hơn. Đất đai trơ trụi và cháy xém, trừ những khu cây có quả và cây nho, những vườn tược có tát nước để trồng các thứ rau.
(7) Tháng bảy.- Gió mát hiu hiu từ phương tây thổi lại, là dịu bớt tiết nóng mùa hạ. Tháng nầy và tháng sau, dân quê bận rộn đạp lúa.
(8) Tháng tám.- Tháng nóng nhất trong cả năm; ở miền đồng bằng gần biển thì giữa trưa, nơi bóng rợp trung bình là 36 độ (96,75 độ F). Còn ở biển Ga-li-lê và thung lũng của hạ lưu sông Giô-đanh, hàn thử biểu còn lên cao hơn nhiều. Trái nho, vả, đào, táo và lê đều chín.
(9) Tháng chín.- Tiết nóng mùa hạ thường dội lên vì cớ những luồn gió từ sa mạc thổi vào lâu hơn lúc mùa xuân; hàn thử biểu lên từ 38 đến 40 độ (100,50 – 104,25 độ F). Người ta phơi vả khô để đến mù đông đem dùng; nho cũng phơi khô, làm nước đường và rượu. Lựu mướp và chuối đều chín. Sau cơn hạn hán suốt mùa hạ, đến cuối tháng này bắt đầu có mưa dào, rồi có chừng nửa tháng nắng và nóng.
(10) Tháng mười.- Hết mùa hái nho và hái vả. Người ta hái quả ô-li-ve, giết chiên béo, tích trử lương thực để dùng trong mùa đông. Mía và quả chà là đương chín. Mưa dào nặng hạt hơn, tức là "mưa đầu mùa" trong Kinh Thánh (xem Giê-rê-mi 5:24). Bắt đầu cày ruộng, vì đất cứng và khô đã có nước mưa làm cho mềm.
(11) Tháng mười một.- Cứ cày ruộng. Gieo lúa mạch nha và lúa miến.
(12) Tháng chạp.- Mưa to hơn, tiết trời mát hơn. Cuối tháng có tuyết trên núi Li-ban. Cam, chanh và chấp đều chín. Tỉa sửa cây nho tháng nầy và tháng sau.
4. Ngày và đêm.- Trong xứ Pha-lê-tin, ngày ngắn nhất và dài nhất trong năm hơn kém nhau chừng bốn giờ. Lúc mặc trời mọc là một lúc đặc biệt, thay đổi cảnh vật rất mau chóng, không ai lầm lẫn được. Các ngôi sao biến đi mau chóng, phía trời đông nhuộm màu hồng, có nhiều tia sáng đỏ sẫm phát ra từ một trung tâm màu vàng mỗi lúc mỗi sáng láng hơn. Rồi đột nhiên – người ta tưởng có tiếng nổ theo sau – mặt trời nổi bật lên sau dẫy đồi, trông như một đĩa tròn sáng rực trên từng trời không mây. Liền đó "bóng tối trốn đi", biến mất không ai thấy, dường như bị khám phá khi đương làm việc phi pháp. Ta có thể thấy một đường vụt mau phân cách ánh sáng với bóng tối: Ánh sáng rực rỡ, chói lọi, còn bóng tối buồn thảm, mập mờ. Đương khi mặt trời lên cao hơn mau chóng, chiếu tia sáng trên đồng bằng, thung lũng và trũng núi, thì ta thấy những chòm cây thông, những sườn núi trồng ô-li-ve, những làng xóm màu xám đột nhiên hoạt động dường như mới ngủ dậy. Những đoạn Kinh Thánh nói đến ánh sáng hiện ra và bóng tối tiêu tan (hoặc trong cõi thiên nhiên hay trong cõi thiêng liêng) đều do cảnh mặt trời mọc ở phương Đông. Những đoạn ấy có sức mạnh hầu như không thể phát biểu ở các nước phương bắc, vì hừng đông ở đó tuy đẹp đẽ theo cách riêng, nhưng chỉ dần dần biến thành một vùng sáng dịu hơn. Trong Ê-sai 60: 1, 2, có chép: "Hãy dấy lên và sáng lòe ra! Vì sự sáng ngươi đã đến!" Trong câu nầy ta thấy sức mạnh của mặt trời mọc, một tiếng kêu gọi thình lình, một sự phân cách giữa sáng với tối rất rõ rệt. Cũng hãy xem Thi Thiên 139:12; Ê-sai 58:8; Ma-thi-ơ 5:14; Công vụ các sứ đồ 26:18; II Cô-rinh-tô 4:4; 6:14; Ê-phê-sô 5:8. Cũng một thể ấy, lời chúc phước của A-rôn (Dân số Ký 6:24-27) là do cách thức mặt trời mọc; nó bao gồm ý rằng linh hồn được cùng một thứ phước lành mà mặt trời ban cho thế giới. Đối với tinh thần phương Đông. thì ánh sáng mặt trời có nghĩa là sự Sáng, sự Sống và sự Thanh sạch. Về sự thanh sạch họ có một tục ngữ rằng: "Con mắt của mặt trời không cần màn che," nghĩa là mặt trời không cần giấu tội lỗi vì nó trong trẻo cực điểm. Đó cũng là ý tưởng chính trong Thi Thiên 19:7, 8, tại đó tác giả so-sánh luật pháp của Chúa với ánh sáng mặt trời. Ánh sáng mặt trời cũng làm thí dụ tốt đẹp về người cai trị công bình (II Sa-mu-ên 23:4).
Từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều là lúc nóng hơn hết (Ma-thi-ơ 20:12). Các tia sáng gay gắt từ trên chiếu xuống, ánh sáng từ đất lổn nhổn những đá rọi lên, không khí rung rinh, núi non vì sức nóng nên hình như dẹp xuống. Cây cối dủ xuống, trông như uể oải; chim thôi hót líu lo trong những cành cây; thỉnh thoảng ve sầu lại ngừng tiếng kêu ra rả, làm cho có sự yên tỉnh kinh dị. Gã chăn chiên thâu nhóm bầy chung quanh mình ở dưới bóng cây hột giẻ, hoặc cầm sáo thổi một lúc rồi ngủ quên dưới bóng vần đá: giờ ấy làm linh dộng và thực hiện nhiều câu, nhiều lời bóng bẩy thường dùng. Đối với một người nghỉ trong bóng mát để khỏi nóng bức gay gắt, thì những lời nầy có một ý nghĩa mới mẻ, dồi dào – "Ngài bổ lại linh hồn tôi" (Thi Thiên 23:3); "Ở dưới bóng của Đấng Toàn năng" (Thi Thiên 91:1); "Mặt trời sẽ không gọi ngươi lúc ban ngày" (Thi Thiên 121:6); "Chói lói hơn mặt trời" (Công vụ các sứ đồ 26:13); "Cũng không có mặt trời, hoặc cơn nắng gắt nào hại mình" (Khải huyền 7:16).
Càng về chiều, không khí càng mát mẻ; các sắc đẹp đẽ bấy giờ thế chổ màu xám và màu cánh gián, nhứt là ở nơi mà ánh sáng dội xuống núi Li-ban cao chót vót, các đồi chung quanh hồ Ga-li-lê và các gềnh đá sừng sững phía sau Biển Chết.
Mặt trời lặng cũng mau chóng như nó mọc. Đương khi ngắm xem vầng thái dương chìm đắm xuống Địa-trung-hải, thì lời dản dị này lại xuất hiện trong trí: " Mặt trời biết giờ lặn" (Thi Thiên 104:19). Và mỗi người trong xứ biết điều đó, chẳng những nông phu ở giữa đồng ruộng, song cả đến người thợ làm việc trong phố xá chật hẹp. Không cần có đồng hồ của thành phố hoặc chuông của công xưởng để báo thì giờ. "Bấy giờ loài người đi ra, đến công việc mình, và làm cho đến chiều tối" (Thi Thiên 104:23). Khi mặt trơi lặn, thì công việc nào cũng thôi cả.
Khoảng thì giờ ngắn ngủi trước và sau khi mặt trời lặn tức là lúc mát buổi chiều. Khi ấy gió khô hanh bắt đầu thổi, và chỉ trong chóc lát đã mát hơn luồn gió ẩm hiu hiu từ biển thổi vào lúc ban ngày. Y-sắc đã đi hưởng ngọn gió ấy. Hiện nay ở thành Beyrouth, Đa-mách, Si-đôn và Giê-ru-sa-lem, vào giờ ấy cư dân cũng còn đi chơi để giải trí và bổ sức.
"Các thú rừng" (Thi Thiên 104:20) bây giờ phần nhiều đã chịu số phận của rừng xanh; nhưng trong các làng miền núi, khi bóng tối giăng trên thung lũng, thì những con chó rừng bò ra, gầm gừ nhau và khiêu khích đàn chó trong làng.
Nửa giờ sau khi mặt trời lặn, các ngôi sao hiển hiện và lắp lánh trên khung trời không một án mây thưa. Nhìn lên các ngôi sao, thì thấy trời tối hơn, sao lớn hơn, êm dịu hơn và sáng láng hơn ở những nước phương Bắc. Các ngôi sao dường như "bước ra" và "nhìn xuống" để được người ta chú ý đến mình. Khi Gia-cốp nằm nghỉ ở Bê-tên, chơn đau và thân mỏi, dưới vùng trời bao la, thì nào có gì lạ, lời hứa của Đức Chúa Trời có hình và có nghĩa nhờ hai vật mà ông đã bắt buộc phải chú ý đến – bụi mù mịch trên mặt đất và vinh quang của các ngôi sao trên trời. Khách bộ hành trong sa mạc thường thích đi ban đêm vì mát mẽ và bình yên hơn. Cũng như các bác sĩ, họ cũng còn nhờ các ngôi sao dắt dẫn.
Nhứt là về mùa thu, mặt trang chói sáng lạ lùng, nên lời hứa: "Mặt trăng cũng không hại ngươi ban đêm" (Thi Thiên 121:6) có nhiều ý nghĩa quí báu trong một xứ tại đó có sự nguy hiểm vì ngủ dưới tia sáng mặt trăng và tại đó khách bộ hành thỉnh thoảng phải dương dù để che khỏi ánh sáng gay gắt của mặt trăng.
Vì người phương Đông tính thì giờ theo tháng của mặt trăng, nên lúc mặt trời lặn là khởi điểm và tận điểm của một ngày. Như vậy, ban đêm thứ bảy là buổi tối thứ sáu ở nước Anh. Giờ làm việc hằng ngày cứ tính từ lúc mặt trời mọc; như vậy, tính lúc mặt trời mọc là sáu giờ, thì giữa trưa là giờ thứ sáu, còn giờ thứ mười một là một giờ trước khi mặt trời lặn. Thì giờ ít thay đổi từ ngày nọ qua ngày kia, còn tối với sáng thì vụt chốc thay đổi, đến nỗi những sự hẹn hò vào lúc mặt trời mọc và mặt trời lặn đều đúng lắm, khác hẳn ở một xứ nhiều mây và có giờ hoàng hôn dai dẳng.
5. Bầu không khí.- Vì xứ Pha-lê-tin không có sương mù và mỏ, nên khí trời trong trẻo lạ lùng. Du khách đi một ngày đường chừng 25 hoặc 30 dặm, ắt thấy cái đích cuộc du hành rõ trước mặt mình, và thoạt đầu phải lấy làm lạ vì dường như mình không hề đến gần đích hơn. Một người đứng trên núi Ê-banh thuộc xứ Sa-ma-ri, nhìn xuống phương nam sẽ thấy núi non chung quanh thành Giê-ru-sa-lem, nhìn lên phương bắc sẽ thấy rõ núi Hẹt-môn. Núi Hẹt-môn này ở phía nam dãy núi Li-ban , nhô lên sau thành Đan và các nguồn sông Giô-đanh. Lại nữa, từ núi Hẹt-môn có thể nhìn thấy dãy núi Li-ban chạy dài và thu hẹp lại cho tới cửa thành Ha-mát. Đứng trên mỗi một hòn núi của dãy Li-ban đó, ta thấy rõ miền cao nguyên ở phía đông sông Giô-đanh, và ở phía tây thì thấy một phần miền duyên hải bằng phẳng của Địa Trung Hải. Dưới ánh sáng chói lọi này các vật ở đằng xa tỏ rõ; trái lại, ở nước Anh các vật ấy bị sương mù màu xanh che khuất.
Du khách đến thăm xứ Pha-lê-tin phải tưởng tượng rằng xứ ấy nhỏ hơn vị trí thật của nó; ấy vì họ bị bầu không khí trong trẻo làm cho lầm lộn. Cũng vì cớ ấy, dãy núi Li-ban cao hơn mặt biển từ 700 đến 2.300 thước tây, nhưng trông không hùng tráng bằng các ngọn đồi xứ Tô-cách-lan, vì rất ít là về mùa hạ, hình thể nó không được ảnh hưởng của khí trời ẩm thấp và của mây bọc kín trên đỉnh.
Trong Kinh Thánh, mọi đoạn nói về đường xa đều xưng hiệp trọn vẹn với bầu không khí trong trẻo lạ lùng.
Áp-ra-ham thấy núi Mô-ri-a "ở lối đằng xa" (Sáng thế ký 22:4); Môi-se thấy rõ xứ mà mình không được phép vào (Phục Truyền luật lệ ký 34:1-3). Khi Sứ đồ Giăng nói về thành Giê-ru-sa-lem mới rằng: "Ở đó tôi không thấy đền thờ nào" (Khải huyền 21:22), thì ta có cảm tưởng rằng ông đã từng thấy thành Giê-ru-sa-lem ở trên đất, là nơi mọi vật nổi bật lên, chói lọi, đặc biệt, không thể lẫn lộn, dưới ánh mặt trời rực rỡ và vòm trời không một áng mây.
Trong các thí dụ của Đức Chúa Jêsus, người cha cũng thấy con phóng đãng "ở đằng xa" (Lu-ca 15:20). Cũng một thể ấy, người giàu nhìn qua vực sâu thấy La-xa-rơ ở trong lòng Áp-ra-ham. Khi Đấng Christ bị ma quỉ cám dỗ, có lần Ngài từ trên núi thấy các nước thế giới. Ở xứ Pha-lê-tin, các vật ở đằng xa hiện rõ là thường quá đến nỗi người phương Đông không để ý tới; người phương Tây ở đó ý lâu, cũng nhận thấy sự "hiện rõ" như thế, mặc dầu là chẳng ưa chuộng bằng bóng xanh sẫm êm dịu ở chơn trời nước Anh, sự truyền thanh qua vùng không khí trong trẻo và có đàn lực (élastique) ở xứ Pha-lê-tin cũng lạ lùng lắm. Các du khách mới tới xứ ấy phải nghĩ rằng những tiếng ở ngoài phố đương nói ở trong nhà. Đứng trên mái nhà của viên lý trưởng, người ta có thể rao báocho cả làng nghe. Trong thành phố thì tiếng thầy tế lễ đạo Hồi-hồi từ trong miếu thờ kêu gọi nhơn dân chung quanh nghỉ việc hoặc thức dậy mà cầu nguyện; còn dân quê thì đứng trên hai bờ thung lũng rộng rãi mà nói chuyện với nhau.
Kinh Thánh cũng nói đến sự đứng trên mái nhà mà báo cáo cho công chúng như thế (Lu-ca 12:3). Lại nữa, khi Môi-se và Giô-suê từ trên núi đi xuống, thì họ phân biệt rõ tiếng kêu la chiến tranh với điệu hát rập ràng với sự nhảy múa thờ hình tượng (Xuất Ê-díp-tô ký 32:17, 18). Cũng một thể ấy, Sau-lơ nhận biết tiếng nói của Đa-vít ở hòn núi xa xa (I Sa-mu-ên 26:13, 17; tham khảo Các quan xét 9:7). Có thể trưng ra nhiều trường hợp khác, tỉ như sự đọc luật pháp trên núi Ê-banh và núi Ga-ri-xim (Giô-suê 8:33), những lời tuyên bố giữa trời của vua Sa-lô-môn (II Sử ký 6), của Ê-xơ-ra (Nê-hê-mi 8), và như Đức Chúa Jêsus thường giảng dạy đoàn dân đông đúc.
6. Phong-cảnh.- Thấy xứ Pha-lê-tin lần thứ nhứt, con mắt ta phải say mê vẻ xán lạn, rõ ràng của mọi vật, cùng màu xanh biếc đẹp đẽ của trời, biển. Rồi ta cảm thấy thất vọng vì tìm mà không thấy những đặc sắc yêu quí của những phong cảnh đẹp đẽ trong các xứ khác. Không có các trại như những chấm trên phong cảnh, không có các đồng cỏ rộn lớn, không có ngựa và súc vật ngốn cỏ tự do, và không có rừng bát ngát. Trong trũng sông Giô-đanh có những hồ nông; sông thì nhỏ, suối rạch khô cạn suốt mùa hạ. Đâu là cây bá hương, cây nho, cây vả, và vẻ đẹp của cây ô-li-ve? Phải chăng đây là Đất Hứa? Phải chăng đây là sản nghiệp của tuyển dân Đức Chúa Trời? Dẫu xứ Pha-lê-tin đã bị tàn phá đương thời nước Y-sơ-ra-ên và đế quốc La-mã, nhưng nó vẫn còn đẹp đẽ miễn là con mắt học tộp tìm những cái nên tìm ở đó.
Sự vinh hiển tối cao của xứ Pha-lê-tin là các màu sắc – các màu sắc đẹp đẽ buổi sáng và buổi chiều – cùng bầu không khí trong trẻo. Ta được say ngắm và hưởng lấy nhiều cái trong dãy núi Li-ban chót vót mà êm ả, trong vẻ hùng vĩ của các đèo, trong vẻ hiu quạnh huyền ảo của đồng vắng, trong rừng ô-li-ve rộng lớn ở Beyrouth, trong cây ccối xanh dờn của thành Đa-mách và Nablous (Si-chem) trong đồng bằng nhan nhản những cây chà là của miền Acre và Jaffa, trong lúc mặt trời lặn đẹp tuyệt trên hồ Ga-li-lê và Biển Chết.
Có bao giờ anh em tự hỏi tại sao Kinh Thánh ít khi mô tả phong cảnh theo cách của những nhà du lịch kim thời chăng? Tại sao Kinh Thánh không ghi chép nhiều hơn về ảnh hưởng của thắng cảnh trên tâm trí, ảnh hưởng của sự giao cảm với "vẻ vui, buồn" của cõi thiên nhiên? Để đáp lại câu hỏi ấy, chúng tôi xin trưng ra ba bằng cớ sau đây:
(1) Mục đích đặc biệt của Kinh Thánh.- Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời; sứ mạng của Kinh Thánh là từ Ngài mà có, là luận về Ngài, và trên hết mọi sự là vì cớ Ngài mà có, mặc dầu đã nói về sự cứu rỗi chúng ta. Kinh Thánh không dành địa vị đầu nhứt cho cõi thiên nhiên, nhưng dành cho Đức Chúa Trời của cõi thiên nhiên và của linh hồn loài người. Khi nào nhắc tới vẻ đẹp đẽ, hùng vĩ của cõi đời ngoại vật, ấy là cốt để tuyên bố rằng Đức Chúa Trời lấy công việc Ngài làm thỏa thích và cai trị mọi sự. Dây liên lạc tối cao ấy không khi nào mất, mặc dầu có khi cõi thiên nhiên được mô tả như một ngôi vị đặc biệt đương tự lấy làm vui thỏa (Thi Thiên 29; 65; 114). Cho nên ở trong Thi Thiên 104, tác giả xem xét sự xứng hôp lạ lùng trong cõi thiên nhiên đến nỗi bật tiếng hát ngợi khen sự khôn ngoan và quyền phép của Đấng Tạo Hóa: "Hỡi Đức Giê-hô-va, công việc Ngài nhiều biết bao!" (câu 24; tham khảo Gióp 28; Thi Thiên 147; Ê-sai 9; Hê-bơ-rơ 3). Cũng theo một cách đó, khi ta chỉ cho người phương Đông xem một vật đẹp đẽ hoặc kỳ diệu trong cõi thiên nhiên, thì người ấy thường kêu rằng: "Ngợi khen Đấng Tạo Hóa!" Sự trước hết mãi nghĩ đến sự vinh hiển của Đức Chúa Trời và đời đạo đức, đó là lời cắt nghĩa tại sao trong các Thi Thiên, các sách tiên tri, các sách Tin Lành và các thơ tín chỉ luận về mục đích và ảnh hưởng của phong cảnh thiên nhiên khi nào cốt dùng làm thí dụ. Cũng vì liên lạc mật thiết với các vấn đề nghiêm trọng và thiêng liêng đó, nên trong xứ Pha-lê-tin, các vật thiên nhiên, các đồ tầm thường dùng làm công nghệ, các phần đặc biệt và các đồ trong nhà, đều có một vẻ thánh khiết và một ý nghĩa hình bóng mà ta không tìm được ở nơi khác. Người phương Tây ngụ ở xứ Pha-lê-tin xem nhơn dân làm công việc thường ngày, bèn nhận ra một nghĩa thiêng liêng cao quí, một thí dụ, nhưng nhơn dân thường chẳng để ý đến. Nhơn dân dùng khí cụ thông thường, song người phương Tây lại cho đó là cách bày giãi đạo Tin Lành và sự bất diệt.
Kìa, dân quê miền Li-ban đứng trên sân lúa đạp, cầm quạt hoặc cái chĩa ba (fourche) bằng gỗ mà phân lúa với rơm. Dân quê đi đến lạch sông Giô-đanh, lội qua nước đến nửa mình, một người đứng giữa dòng sông nhìn lại phía sau xem bọn kia lội qua thể nào. Nhưng người ấy chẳng hề nghĩ đến dị tượng của Bunyan và hi vọng của tín đồ đương hấp hối. Cũng một cách ấy, tay ngư phủ vá lưới trên bờ hồ Ga-li-lê nhưng chẳng nghĩ rằng linh hồn mình cần được Chúa "đánh lưới." Người làm vườn trồng những trụ đá lởm chởm trong vườn nho, quét một nước vôi trắng để soi lối ban đêm và đuổi xa đàn chó rừng, nhưng không suy nghĩ rằng có những chùm nho hệ trọng, quí báu hơn cần phải che chở. Cũng một thể ấy, thành Giê-ru-sa-lem tấp nập, rộn ràng, đương mở mang, có nhiều phái đạo và nhiều mưu chước giả dối kia, còn có bức thành lũy rộn hơn các nhà khảo cổ đào bới lên được danh hiệu Si-ôn của nó nay thuộc về nhiều nước, và thành của Đức Chúa Trời bao gồm cả thế giới.
(2) Tinh thần của phương Đông đối với phong cảnh.- Sự say mê vẻ đẹp của phong cảnh là một sự sản xuất tân thời của cuộc sinh hoạt Âu Tây; người dân thường ở phương Đông không có con mắt mỹ thuật ấy. Người ấy có tinh thần thực tiển, chớ không có tinh thần thảm mỹ và khoa học. Người chỉ nhận các sự lợi ích của cõi thiên nhiên, chớ không xét xem cõi thiên nhiên cấu tạo thế nào. Người hững hờ với môn thảo mộc học, địa chất học và khảo cổ học. Người coi sự khảo cứu các nguyên nhân phiền phức và sự giãi bày cõi thiên nhiên là một việc vô lý. Người chú ý đến cây cối để được đồ ăn và vị thuốc; đến rừng xanh để được than, củi; đến núi non để được mạnh khỏe và phòng thân; đến các đóng hoang tàn thượng cổ để được của báu chôn vùi; đến các ngôi sao để biết dò lối và dò số mệnh. Vậy nên ông Lót là một nhà mỹ thuật theo lối Đông phương khi ông nhìn xem đồng bằng Sô-đôm và thấy là nơi "có nước chảy tưới khắp" (Sáng thế ký 13:10); ấy cũng như nàng c-sa khi nàng xin những suối nước làm cơ nghiệp, và Y-sác khi "mùi rừng núi" của áo Ê-sau nhắc cho ông nh�