Tuần 46: SÁCH AI CA, BARUCH, THƯ GIÊRÊMIA
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TÔN GIÁO
1. Lưu đày
Trong những năm sau khi Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên), một số người Do thái bị lưu đày sang Babylon, số khác chạy trốn sang Ai Cập, số khác nữa vẫn ở lại quê nhà.
Vào năm 539, vua Ba Tư là Kyrô đánh bại Babylon và thiết lập đế quốc Ba Tư. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của ông là cho phép các dân lưu đày được trở về quê hương của họ.
2. Người Do thái sau lưu đày
Nhiều người đã trở về quê hương nhưng số đông hơn vẫn ở lại trên đất lưu đày (nay đã thành quen thuộc với họ). Những người ở lại tạo thành cộng đoàn tản mác (diaspora), đông nhất là ở vùng Mesopotamia và Ai Cập. Dĩ nhiên có nhiều người đã đánh mất niềm tin truyền thống của cha ông nhưng số đông hơn vẫn trung thành với tôn giáo truyền thống. Trong những năm kế tiếp đó, cộng đoàn Do thái tản mác này đã phát triển mạnh cả về mặt vật chất lẫn đời sống tôn giáo. May mắn cho tương lai tôn giáo của Israel là nhiều người lưu đày lại xuất thân từ những gia đình trí thức và có ảnh hường (các tư tế, ký lục và ngôn sứ) nên dân lưu đày vẫn tiếp tục được hướng dẫn nhờ thành phần ưu tú này. Sống trong cảnh lưu đày, họ phải xa đền thờ, do đó đời sống tôn giáo tập trung vào các hội đường và những văn bản được linh hứng. Họ tụ họp trong các hội đường, đọc và nghiên cứu Lề Luật và các tiên tri, rồi cũng trong giai đoạn này xuất hiện các sách như Ai Ca, Tôbia, Esther, Judith, Khôn ngoan, và Baruch.
II. SÁCH BARUCH
1. Tác giả
Baruch là thư ký của Giêrêmia (x. Gier 36). Có lẽ ông đã đi theo tiên tri Giêrêmia trong cảnh lưu đày, và ông rất quen với những thư Giêrêmia gửi cho dân lưu đày (chương 29 – 33).
Thời xưa, có những tác giả vô danh viết sách nhưng lại đề tên tác giả là những vị nổi tiếng của thời trước. Chính vì thế có nhiều Thánh vịnh được gán cho vua Đavít và những sách khôn ngoan được gán cho vua Salomon. Tương tự như thế, có thể có sách được gán cho Baruch là người thư ký nổi tiếng của Giêrêmia.
2. Một cái nhìn tổng quát về sách Baruch
Nhập đề (1,1-14)
Lời kinh sám hối (1,15 – 3,8)
Bài thơ ca tụng sự khôn ngoan (3,9 – 4,4)
Giêrusalem than van và hi vọng (4,5 – 5,9)
Thư của Giêrêmia (6,1-72)
I. AI CA
1. Tác giả và thời gian biên soạn
Sách được gọi là “Than vãn của Giêrêmia” khi tiên tri nhìn thấy sự sụp đổ của Giêrusalem năm 587 trước Công nguyên. Ngài nhìn thấy làn khói bốc lên từ thành phố, nghe thấy tiếng kêu than của phụ nữ, nhìn thấy xác người nằm ngổn ngang trong cảnh hoang tàn. Tuy nhiên không chắc vị tiên tri là tác giả của tất cả các lời than trong sách. Có thể hai bài thơ đầu là của thị chứng nhân, còn những bài khác được biên soạn trong nhiều năm sau này. Điều chắc chắn là sách Ai Ca như ta có hiện nay đã được hoàn thành khoảng năm 538 trước Công nguyên. Để tưởng niệm biến cố Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên và 70 sau CN), người Do thái đọc sách này trong các hội đường.
2. Nội dung
Sách Ai Ca gồm 5 bài ca:
(1) Giêrusalem bị bỏ rơi và thất sủng (1,1-22)
(2) Cơn giận của Chúa chống lại Sion (2,1-22)
(3) Những đau khổ của vị tiên tri và dân Chúa (3,1-66)
(4) Nỗi tang thương của thành bị chiếm đóng (4,1-22)
(5) Lời than thở và khẩn cầu của vị tiên tri (5,1-22)
Nội dung chính: vừa suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của đau khổ vừa nói lên niềm hi vọng và cậy trông vào Thiên Chúa.