PHẦN II: HẠNH TÍCH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO (61 – 70)

PHẦN II: HẠNH TÍCH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO (61 – 70)

Hạnh Tích Các Thánh - Mar 24/03/2014

“Này cụ, chỉ một lát nữa thôi cụ sẽ phải chém đầu, nếu cụ không bước lên Thánh Gía. Hãy nghĩ lại, cụ sẽ được tha để trở về Âu Châu ngay”. Ngài không do dự và cương quyết trả lời: – “Nhất định tôi không bước qua Thánh Giá. Các quan muốn chém đầu tôi thì cứ chém”.

PHẦN II: HẠNH TÍCH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO (61 – 70)

Ngày 24 tháng 7

Thánh Giuse Ferandez Hiền

Linh muc  (1775-1838)

Thánh Giuse Fernandez Hiển sinh ngày 3 tháng 12 năm 1775 tại làng Ventosa de la Cuesta trong giáo phận Avila, tỉnh Valladolid, nước Tây Ban Nha. Ngay từ khi còn nhỏ, Fernandez đã mong ước được dâng mình cho Chúa., và cha mẹ khi biết được ý nguyện của cậu con trai yêu quí cũng rất vui mừng, vì ông bà rất đạo đức và hằng cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho con mình mong muốn đi tu làm linh mục.

Chính vì những lý do đó mà cậu Giuse Frenadez đã sớm được vào nhà Chúa. Cậu xin cha mẹ để vào dòng Đa Minh tại tu viện thánh Phaolô ở Valladolid. Cha mẹ chấp thuận ngay. Cha mẹ và toàn thể gia đình đều hân hoan cho đó là một đặc ân Chúa ban cho gia đình. Được nhận vào dòng ngay từ nhỏ, cậu Giuse Fernandez có nhiều cơ hội và thời giờ học tập chữ nghĩa và rèn luyện các nhân đức. Năm 1796, lúc ấy Ngài đã 21 tuổi thì tuyên khấn trọn đời rồi theo lệnh Bề trên Ngài học chương trình Triết và Thần học để chuẩn bị lãnh chức linh mục.

Khi đã hoàn tất chường trình đào tạo linh mục thì năm 1804 Ngài lãnh chức linh mục. Vì ước mong đi truyền giáo tại Á Châu cho nên Ngài xin chuyển sang tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tại Manila, Phi Luật Tân  Được các Bề trên chấp thuận, ngày 16 tháng 4 năm 1805 Ngài xuống tầu đi Manila. Tới năm 1806, Ngài được cử làm đại diện cho Hội Dòng Truyền Giáo nên ngày 18 tháng 2 năm 1806 Ngài lại phải đi Macao. Ở Macao một thời gian ngắn, Bề trên lại cử Ngài đi truyền giáo tại Việt Nam. Ngài đi tầu đến cửa Thuận An, Đà Nẵng thì gặp bão lớn Ngài phải lên đất liền đi bộ ra Bắc Việt. Vì đương xá xa xôi, hiểm trở nên ra tới Bắc Việt thì Ngài bị kiệt sức, bị bệnh, phải nghỉ ngơi, dưỡng bệnh một thời gian khá lâu. Lúc ấy là thời vua Gia Long trị nước, đạo Chúa chưa bị cấm cách, đất nước bình an, các Thừa Sai ngoại quốc được đi lại tự do dễ dàng, nhất là được tự do truyền đạo.

Tới được Việt Nam, cha Giuse Fernandez có tên Việt Nam là An . Cha Giuse An rất chăm chú trau dồi tiếng Việt và học hỏi về phong tục, tập quán của người Việt Nam.. Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn Ngài đã nói và nghe thông thạo tiếng Việt. Nhờ tính tình dễ dãi, vui vẻ, hiền lành và khiêm nhường nên ngay từ buổi đầu Ngài đã chiếm được cảm tình của dân chúng. Người Công giáo cũng như không Công giáo ai ai cũng thương mến Ngài. Ngài đã sống với dân làng Xuân Dục một thời gian khá lâu, nhờ vậy mà nhiều người lương dân đã trở lại đạo và Xuân Dục đã trở nên một xứ đạo nổi tiếng là dân làng có đức tin mạnh mẽ. Sau đo, bề trên lại đổi Ngài về làm cha xứ Kiên Lao, một xứ đạo lớn có tới 5 ngàn giáo dân khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ.Sau đó Ngài lại vâng lời về nhận chức giám đốc trường Lý Đoán rồi cuối năm 1837 Ngài lại chuyển về Ninh Cường coi sóc trường La tinh tại đây. Trong thời gian này Ngài bị bệnh kiết lị rất năng nguy kịch đến nỗi suýt chết.

Mùa Xuân năm 1838 Ngài lại được anh em bầu làm Bề trên Phụ Tỉnh Dòng nhưng Ngài chưa kịp thi hành chức vụ thì cuộc cấm đạo lại bùng nổ, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại gắt gao thi hành lệnh vua ban xuống, lúc ấy Ngài đang ở Ninh Cường. Theo lời yêu cầu của một số giáo dân Ninh Cường xin Ngài đi ẩn trốn, nếu không họ sẽ phải liên luỵ. Thấy dân yêu cầu như thế, Ngài trốn xuống Quần Liêu. Giáo dân Quần Liêu cũng khiếp sợ như giáo dân ở Ninh Cường nên Ngài lại phải tìm đường trốn lánh. Chưa biết đi đâu thì may mắn Ngài gặp được cha xứ Lác Môn là cha Phêrô Nguyễn Bá Tuần thấy Ngài quá khổ sở như vậy thì động lòng xót thương, tận tình giúp đỡ. Nhưng chỉ hai ngay sau tình thế quá nguy hiểm cả hai Cha phải vượt sông qua điạ phận Tây Đàng Ngoài ghé vào xứ Kim Sơn. Cha xứ Kim Sơn cũng hết lòng giúp đỡ, nhưng vừa tới nơi thì đã nhận được tin quan tỉnh Ninh Bình cũng đã ra lệnh cho quân địa phương lùng bắt các đạo trưởng vì có mật báo cho biết hiện đang có các đạo trưởng Thừa Sai đang ẩn trốn trong vùng này.

Giáo dân sợ hãi quá vội mời hai cha lên chiếc thuyền nhỏ, rồi bí mật đưa các Ngài vào khu xình lầy gần đó ẩn lánh. Hai ngày sau, cha xứ Kim Sơn thấy tình trạng các Ngài khổ cực quá thì lại đưa các Ngài về gửi gắm nhà ông Bát Biên. Ông này là người ngoại giáo, nhưng lại là người chịu ơn cha xứ Kim Sơn rất nhiều và rất tốt với Ngài. Cha xứ tin tưởng ông. Trong 8 ngày đầu, ông Bát Biên xử với hai cha rất tốt  Nhưng sau vì quá tham tiền do nhà vua hứa trọng thưởng cho những ai tố cáo đạo trưởng, ông này nổi máu tham nên đã tìm kế hoạch nộp các Ngài để lấy tiền thưởng.

Tối ngày 18 tháng 6, ông bày mưu lừa dối nói với các Ngài rằng: “Chúng con nghe tin quan biết hai Cha đang trốn lánh ở đây. Quan quân sắp tới vây và khám xét trong làng. Vậy chúng con đem hai Cha đi nơi khác an toàn hơn”.

Rồi ông mời hai Cha xuống thuyền, chở đi nộp cho quan quân trên bờ sông Qui Hậu, Nhờ công này mà ông Bát Biên được phong chức quan và nhận được 100 nén bạc tiền thưởng do vua ban..

Cha Giuse Hiền 62 tuổi bị nhốt trong cũi tre. Cha Phêrô Nguyễn Khắc Tuần 72 tuổi thì bị đeo gông nặng nề giải về tạm giam tai Ninh Bình bốn ngày, rồi sau đó bị điều về Nam Định nộp cho quan tổng đốc Trinh Quang Khanh.

Về tới nhà tù Nam Định, cha Giuse Frenandez Hiền bị nhốt trong cũi ở trong một chỗ xa xôi nhất của nhà tù, nên rất khổ cực, phải chịu cực hình khủng khiếp như phải đói khát, bị nóng nực, ngày đêm nằm gò người trong chiếc cũi tre chật hẹp. Nhờ có một nguời Công giáo rất giầu có tên Dương đã đút lót cho viên cai tù để lén lút vào thăm nuôi, nếu không có lẽ Ngài đã phải chết rũ tù vì đói khát và cực khổ quá sức chịu đựng. Những ngày đầu anh Dương còn phải đút từng miếng cơm và đưa nước vào miệng Ngài, vì Ngài qúa kiệt sức, không còn sức để đưa lương thực vào miệng nữa.

Khi sức khoẻ Ngài đã trở lại thì nhiều lần quan Lê Văn Đức đã bắt Ngài ra toà để bị tra vấn. Quan hỏi Ngài về lý lịch, đến Việt Nam khi nào, làm những gì v.v. Ngài cố gắng trả lời ngắn và gọn để không ai bị liên lụy. Quan hỏi thì Ngài nói:

– “Từ ngày vua cấm đạo, chúng tôi mạnh ai nấy trốn lánh, nên chẳng ai biết ai ở đâu cả”.

Quan Lê Văn Đức dụ Ngài:

– “Tôi sẽ tâu vua là ông chỉ là thông dịch viên, nếu ông bỏ đạo”.

Ngài dứt khoát trả lời:

– “Tôi đến Việt Nam không phải để phục vụ vua chúa trần gian này. Tôi đến đây là để rao giảng về Đức Chúa Trời mà thôi”:.

Ngài lại xin quan cho phép gặp hai Đức Cha bị bắt và đang bị giam ở đây. Quan liền hỏi:

– “Ngươi có biết những người này không?’

Ngài vui vẻ trả lờI:

– “Tôi biết và quen lắm. Tôi sẽ rất mừng nếu quan cho phép”.

Quan Lê Văn Đức cho Ngài được như ý xin. Quan lệnh đem hai Đức Cha cũng bị nhốt trong cũi như Ngài,. Ba vị chiến sĩ kiên trung anh dũng của Chúa thật vô cùng cảm động được gặp lại nhau trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt trong một tiếng đồng hồ. Ba Ngài nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Đức Cha Ignatiô DelgadoY nói rất ít vì lúc ấy Ngài đang bị bệnh rất nặng. Ngài chăm chú nghe cha Giuse Fernandez Hiền vui vẻ nói chuyện với Đức Cha Đa Minh Henares Minh. Đức Cha Ignatiô Delgado Y có lúc tự nhiên nói lớn bằng tiếng Việt Nam:

– “Này cha Bề trên Fernandez Hiền, cha muốn xử trảm chứ?”

Cha Fernandez Hiền can đảm trả lời:

– “Tất nhiên con muốn. Con không do dự chút nào”

Các quan nghe thế lấy làm kinh ngạc. Nghe các Ngài nói chuyện về cái chết sắp đến của mình mà không hề sợ hãi, lại còn tỏ ra vui mừng nữa. Thấy thế, các quan biết là không còn cách nào để có thể thuyết phục được các Ngài nên bàn định với nhau rồi làm án đệ trình về triều đình, xin vua  châu phê.  Bản án của cha Fernandez Hiền và cha Phêrô Nguyễn Bá Tuần được vua Minh Mạng châu phê, gửi lại cho quan tổng đốc tỉnh Nam Định Trịnh Quang Khanh ngày 18 tháng 7 năm 1838. Khi bản án gửi tới thì cha Phêrô Nguyễn Bá Tuần vì qúa kiệt sức vì những cực hình phải chịu nên đã chết rũ tù 3 ngày trước đó, còn lại cha Fernandez Hiền mà thôi.

Để thi hành án lệnh, sáng ngày 24 tháng 7 năm 1838, Ngài sẽ phải ra pháp trường Bảy mẫu để chịu án. Trước khi điệu Ngài ra pháp trường, quan tổng đốc còn khuyên dụ Ngài lần cuối. Xin Ngài vui lòng bước qua Thánh Gía. Quan nói:

– “Này cụ, chỉ một lát nữa thôi cụ sẽ phải chém đầu, nếu cụ không bước lên Thánh Gía. Hãy nghĩ lại, cụ sẽ được tha để trở về Âu Châu ngay”.

Ngài không do dự và cương quyết trả lời:

– “Nhất định tôi không bước qua Thánh Giá. Các quan muốn chém đầu tôi thì cứ chém”.

Thấy Ngài trả lời mạnh mẽ và dứt khoát như thế, quan ra lệnh nhốt lại trong cũi. Mấy người lương dân tới chế nhạo, bứt tóc, giật râu, thò tay vào cũi đấm Ngài. Ngài vui vẻ tỏ lòng tha thứ và cám ơn.

Đợi mãi tới 2 giờ chiều, quan Giám sát và đoàn lính lý hình mới đưa Ngài ra pháp trường Bảy Mẫu.Tới pháp trường, quân lính kéo Ngài ra khỏi cũi, thân xác bị đánh đập rã rời, nhưng tâm hồn Ngài luôn vui sướng, nét mặt tươi vui. Lính kéo lê Ngài trên chiếc chiếu nhưng sức quá yếu nên hầu như không còn đủ sức để gượng dậy: Trong lúc Ngài quì cầu nguyện thì ba hồi chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm cao rồi chém một nhát, đầu Ngài rơi xuống.đất Thế là chấm dứt cuộc đời Ngài tại thế, sau 32 năm phục vụ Chúa tại Việt Nam. thân yêu  Nhiều người xô tới thấm máu Ngài, Một tín hữu đã chuẩn bị đem theo một cỗ quan tài, rồi đút lót tiền bạc cho quan quân, xin thi hài của Ngài đặt vào quan tài đem về an táng.tại Lục Thủy Riêng đầu của Ngài thì theo lệnh, quan cho treo lên cao nơi công cộng 3 ngày để nêu gương cho dân chúng thấy mà sợ hãi. Sau ba ngày thì phải buông sông, không ai vớt được.  Mãi về sau hài cốt Ngài được cải táng đưa về đặt tại nhà thờ Phú Nhai. Một số di tìch của Ngài như muỗm, nĩa, và một số đồ dùng của Ngài còn được lưu giữ tại Toà Giám mục Bùi Chu Ngày Ngài lãnh triều thiên tử đạo là ngày 24 tháng 7 năm 1838 tại pháp trường Bảy Mẫu tỉnh Nam Định.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong Ngài lên hàng Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh cùng với 116 vị thánh tử đạo khác ngày 19 tháng 6 năm 1988.

 

 

 Ảnh 

 

Ngày 28 tháng 7

Thánh Giuse Melchior Garcia  Sampedro Xuyên

Giám mục (1821-1858)

Thánh Giuse Melcchior Garcia Sampdro Xuyên sinh ngày 29 tháng 4 năm 1821 tại họ đạo thánh Stêphanô, làng Cortes thuộc tỉnh Oviedo, nước Tây Ban Nha, con của hai ông bà  Gioan Garcia Sampedro.và Francesca Suarez. Tuy là gia đình thuộc hàng quí tộc nhưng nay thì gia đình đã sa sút rất nhiều về vật chất, nhưng lòng đạo dức, tính hiền hoà và rất cương trực thì không ai sánh bằng. Ông bà rất chú tâm đến việc giáo dục đức tin và đời sống đạo đức cho con cái. Hằng ngày sáng tối mọi người phải cầu nguyện chung. Ông bà lại có lòng từ bi bác ái. Tuy nghèo nhưng không bao giờ từ chối khi có người tới ăn xin. Năm 12 tuổi, cậu Giuse Melchior Garcia Sampedro đã ngỏ ý xin đi tu để làm linh mục, nhưng cha mẹ muốn con mình học xong chương trình Trung học rồi sẽ tính chuyện sau.

Năm 1835, lúc cậu Sampedro mới được 14 tuổi thì đã ghi danh vào trường đại học Oviedo theo ban triết học. Tuy chưa tốt nghiệp đại học nhưng thầy Sampedro đã được mời làm giáo sư dạy Văn Chương, La ngữ và Nhạc Lý cho trường thánh Giuse tại Oviedo.

Năm 1844, thầy Sampedro tốt nghiệp đại học, hoàn tất chương trình triết và thần học lúc 24 tuiổi. Thầy được tuyển chọn làm giáo sư phụ tá dạy môn Luân Lý cho các tân sinh viên. Cuối tuần thì về giúp đỡ cha mẹ làm ruộng lo việc đồng áng. Ngoài ra thầy còn giúp cha xứ dạy Giáo lý cho các em thiếu nhi trong giáo xứ. Nhiều thanh thiếu niên trong giáo xứ đã coi thầy Sampedro như là tấm gương tốt về lòng đạo đức cũng như hiếu thảo của mình.

Nhưng tiếng Chúa kêu gọi vẫn thôi thúc thầy, ước mong trở thành linh mục để lo việc truyền giáo vẫn âm ỉ đốt cháy tâm hồn của thầy. Ngày 2 tháng 7 năm 1845 thầy đã dứt khoát và xin phép cha mẹ để vào tu viện Đa Minh, thuộc tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tại Ocana, rồi ngày 16 tháng 8 cùng năm thầy nhận áo dòng, chính thức bước vào năm Tập theo Hiến Pháp của dòng.

Qua một năm tập thầy khấn ba lời khấn dòng và vì thầy đã học xong chương trình triết và thần học rồi nên một năm sau bề trên quyết định cho thầy lãnh chức linh mục tại Madrid ngày 29 tháng 5 năm 1847 Sau khi lãnh chức linh mục, cha Sampedro làm mục vụ tại Ocana được 9 tháng thì bề trên biết cha Sampedro rất mong ước đi truyền giáo tại Á Châu nên bề trên quyết định gửi cha đi cùng với 4 anh em khác của dòng. Ngày 7 tháng 3 năm 1848, nhằm chính ngày lễ kính thánh Tôma tiến sĩ, Cha Sampedro cùng 4 đồng nghiệp tới cảng Cadice, xuống tàu Victoria khởi hành đi Manila Phi Luật Tân Ngày 25 tháng 7 năm 1848 tàu cập bến Manila. Các Ngài vui mừng được đặt chân trên phần đất của Á Châu.

Khi tới nơi thì bề trên đã xếp đặt để cha Sampedro phụ trách khoa triết lý cho trường đại học Santo Thomas, nhưng cha xin được phép đi truyền giáo tại Việt Nam. Biết được ý nguyện của Ngài, cha bề trên đồng ý chấp thuận và để Ngài tự do học hỏi ngôn ngữ và tìm hiểu phong tục tập quán của Việt Nam. Đến đầu năm 1849 Ngài vui mừng đạt được ước nguyện cách trọn vẹn khi Ngài đặt chân trên đất Đông Xuyên của Việt Nam yêu qúi và chính thức được Đức Cha Jêrônimô Hermosilla Liêm đón tiếp lại còn được Đức Cha tặng cho tên Việt Nam là Xuyên –cha Xuyên-, hôm đó là ngày 28 tháng 2 năm 1849. Nhưng đáng buồn là trong thời kỳ này tại Việt Nam đang thời vua Tự Đức cấm đạo.

Nhiệm vụ đầu tiên được bề trên ủy thác tại Việt Nam là làm giám dốc Chủng viện Cao Xá. Thời gian giữ chúc vụ này Ngài đã chứng tỏ khả năng kiến thức cũng như những nhân đức, sự thánh thiện của Ngài. Từ Ban giáo sư đên các chủng sinh ai nấy đều ca tụng Ngài là một linh mục gương mẫu về mọi mặt.Do đó, Đức Cha lại bổ nhiệm Ngài làm cha chính địa phận, rồi nhà dòng lại đặt Ngài làm bề trên Giám tỉnh dòng Đa Minh tại Việt Nam. Ngoài công tác điều hành công việc theo các chức vụ nói trên, cha Sampedro còn dành thời giờ để soạn bộ sách giáo lý theo các trình độ khác nhau. Nhờ

vậy mà rất nhiều người đã hiểu biết về đạo Công giáo và đã xin được rửa tội, có lần 54 gia đình gồm hơn 500 người lớn nhỏ đã xin cha rửa tội trong một thánh lễ long trọng.

Ngày 26 tháng 8 năm 1852 Đức Cha Marti Gia lâm bệnh và qua đời tại Hồng Kông thì Toà Thánh đặt Đức Cha Diaz Sanjurjo An lên kế vị. Vì điạ phận qúa đông nên Đức Cha Diaz Sanjurjo An xin phép Toà Thánh để chọn cha Sampedro Xuyên lên làm Giám mục Phó hiệu toà Tricomia với quyền kế vị. Lễ tấn phong Giám mục được cử hành long trọng tại Bùi Chu ngày 1 tháng 9 năm 1855, với sự hiện diện của 2 Giám mục, 49 linh mục và rất đông giáo dân tham dự. Sau đó Ngài lại trở về chủng viện Cao Xá. Từ Cao Xá về Bùi Chu và rồi từ Bùi Chu trở lại Cao Xá, cả hai lần thuyền chở Ngài đều bị lính khám xét. Đức Cha nằm trong phía trong mạn thuyền, thế mà Chúa gìn giữ không bị phát giác.

Trở về Cao Xá trong hoàn cảnh đạo Chúa đang bị bắt bớ, thế mà Đức Cha Giuse Sampedro vẫn âm thầm lén lút ban đêm đi thăm các xứ đạo và thi hành muc vụ đều đều

Ngày  21 tháng 5 năm 1857 Đức Cha Diaz Sanjurjo An bị bắt, Đức Cha Giuse Milchior. Sampedro lên thay, Ngài sợ điạ phận có ngày bị mất chủ chiên nên Ngài xin Toà Thánh bổ nhiệm cha Valentinô Berrio Ochoa Vinh làm Giám mục Phó với quyền kế vị. Lễ tấn phong âm thầm cử hành vào lúc 2 giờ sáng trên cót thóc nhà ông Trương Chi, xã Ninh Cường, giáo phận Bùi Chu hiện nay, ngày 13 tháng 6 năm 1858. Trước tình thế khó khăn vì các cuộc săn lùng bắt bớ, các Giám mục và linh mục, Đức Cha Sampedro Xuyên cai quản giáo phận bằng đời sống đạo đức thánh thiện và cầu nguyện. Ngài thường đánh tội, ăn chay cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ để Ngài có thể giúp cho nhiều người trở lại cùng Chúa. 

Sau lễ tấn phong Giám mục cho Đức Cha Valentinô Borrie Ochoa Vinh, Đức Cha Sampedro Xuyên tiếp tục âm thầm đi kinh lý các xứ đạo trong vùng. Ngài tới Quần Cống rồi tới Thôn Đông, tiếp tục đi vòng tới Kiên Lao. Ngài ở lại Kiên Lao nhiều ngày hơn vì giáo dân xứ này có tới 5 ngàn người, mặc dầu vua vẫn ra lệnh cấm đạo, nhưng số người theo đạo mỗi ngày thêm đông.

Hôm ấy quan tổng đốc tỉnh Nam Định được mật báo cho biết tại Kiên Lao có nhiều Thừa Sai Âu Châu đi lại và ấn trốn tại đó, nên quan tổng đốc chỉ thị cho các quan quân ở các địa phương phải truy nã bắt hết các vị Thừa Sai. Do đó lúc Đức cha Sampedro Xuyên tới Kiên Lao trú tại nhà ông Trùm Khanh thì quân lính kéo đến vây làng Kiên Lao. Vì quá gấp rút nên chạy trốn không kịp, quân lính vây bắt được Đức Cha và hai thầy Giảng tên là Đa Minh Nguyễn Tiệp và Mai Hiếu. Thế là Đức Cha bị bắt chỉ một tháng sau lễ tấn phong cho Đức Cha Borrie Ochoa Vinh. Quan bắt Đức Cha Melchior Sampedro Xuyên đeo gông nặng nề, xiềng xích chân tay rồi giải về tỉnh Nam Đinh cùng với hai Thầy Giảng Tiệp và Hiếu.

Bị giam trong ngục tù Nam Định, Đức Cha phải đối chất với quan tổng đốc Nguyễn Đình Tân nhiều lần. Sau nhiều lần ép buộc Ngài bước lên Thánh Giá. Ngài nhất định từ chối nên quan kết Ngài 3 tội sau đây

“Tội thứ nhất: Mặc dầu đã có lệnh nghiêm cấm, Ngài đã xâm nhập và ở trong nội địa Việt Nam 9 năm trời, đi tuyên truyền “tà đạo Gia Tô” và lừa dối dân chúng”.

– “Tội thứ hai: Đã ngấm ngầm liên lạc “mời” thuyền trưởng ngoại quốc đến với ý đồ xâm nhập lãnh thổ quốc gia tại Đà Nẵng”.

– Tội thứ ba: Làm tướng quân xúi dục dân chúng nổi loạn chống nhà vua”

Đức Cha nghe bị kết 3 tội trên đây, Ngài chỉ nhận tội thứ nhất mà thôi, nghĩa là Ngài chỉ nhận là tới Việt Nam để rao giảng đạo Chúa. Các tội kia Ngài không làm, không nhận.

Mấy bà già thuộc giáo xứ Kiên Lao lén lút tới thăm nuôi Đức Cha, nghe quan tổng đốc tỉnh Nam Định kết tội Đức Cha như thế thì oà lên khóc và nói:

– “Giêsu Maria, lạy Chúa tôi! Quan mà cũng vu khống cho Đức Cha như thế mà không sợ Chúa phạt à? Chúng tôi biết Đức Cha chỉ làm những sự đạo đức và giúp đỡ những người nghèo đói như chúng tôi, có bao giờ Đức Cha xúi ai làm loạn chống đức vua đâu? Lạy Chúa tôi, quan vu oan cáo vạ cho Đức Cha rồi”.

Đội lính canh nghe các bà khóc bù lu bù loa và kêu ca như thế thì sợ hãi quá, vội vã xua đuổi các bà ra khỏi cổng nhà tù. Bị đuổi, một bà quay đầu lại, nói thêm:

– “Con lạy Đức Cha! Xin Chúa giúp Đức Cha. Chúng con nhìn thấy Đức Cha phải đeo gông nặng nề như Chúa Giêsu vác Thánh Giá ngày xưa, chúng con đau lòng lắm. Lạy Chúa! xin giúp Đức Cha của chúng con”.

.Sau 3 tuần lễ giam trong ngục tù, bị hành hạ và tra tấn cùng muôn vàn khổ nhục, Ngài nhận được bản án bị xử lăng trì. Ngài vui mừng tạ ơn Chúa và sẵn sàng dọn mình chiụ chềt vì Chúa. Ngày 28 tháng 7 năm 1858, quan Giám Sát cùng đội binh lý hình 20 người đưa Đức Cha cùng hai Thầy Giảng  Tiệp và Hiếu ra pháp trường Bảy Mẫu. Trên đường tiến ra pháp trường Đức Cha Giuse Sampedro tươi cười, cổ mang gông nặng nề, tay chân bị xiềng xích. Nhưng cũng cố giơ tay ban phép lành cho dân chúng dứng thương khóc Ngài.

Tới pháp trường. Quan Giám Sát lệnh xử trảm (chém đầu) hai Thầy Giảng, còn Đức Cha Giuse Sampedro thì phải xử lăng trì (phân thây). Đức Cha chứng kiến trảm quyết hai Thầy trước. Hai Thầy thưa với Đức Cha:

– ‘Chúng con tạm biệt Đức Cha. Chúng con hẹn gặp Đức Cha ở trên Trời. Xin Đức Cha cầu nguyện cho chúng con can đảm đến cùng”.

Đức Cha  khuyên hai Thầy:

– “Chúng con đừng sợ. Chúa sẽ giúp chúng ta. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Trời:.

Sau đó, hai Thầy bị chém đầu. Còn Đức Cha thì bình tĩnh để cho lý hình xô ngã trên chiếu đã phủ vải sẵn. Lý hình lột hết quần áo, chỉ để lại một chiếc quần cụt, rồi họ trói chân tay thật chặt vào 4 chiếc cọc ở 4 phía, và thêm 2 cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy.

Mọi chuẩn bị đã xong, 5 lý hình cầm sẵn 5 cái rìu sắc bén, chờ hiệu lệnh trống chiêng nổi lên, lần lượt 5 lý hình thi hành nhiệm vụ.

– Người lý hình thứ nhất giơ cao rìu bổ xuống đầu gối, phải chém tới 12 nhát mới đứt hai chân.

– Người lý hình thứ hai chặt khủyu tay bị đau đớn quá Ngài chỉ còn thều thào kêu lên:

-“ Giêsu Maria!

– Người thứ ba: vung gươm:thật cao, chém đầu!

Sau vài phút, người lý hình thứ bốn và thứ năm xông vào mổ bụng, lấy gan giơ lên cho mọi người trông thấy và nói:

– “Bà con xem này,  gan tây to lắm!”

Nói xong họ vứt luôn ruột gan vào đống lửa đang bừng bừng cháy ở bên cạnh.

Những người đứng gần đó, hốt hoảng la lên:

– “Lạy Chúa tôi! Họ giết Đức Cha rồi! Ghê tớm quá!

Máu đọng lại thành vũng giáo dân xô vào thấm máu nhưng quan ra lệnh ngăn cản không cho ai tới gần.

Các tín hữu, nhất là một số các cụ già, chẳng còn sợ hãi, cứ xông vào. Miệng khóc lóc, kêu la, tay ôm vải cố gắng thấm được chút máu của vị anh hùng tử đạo

Sau cùng bọn lý hình nhặt chân tay cho vào cái giỏ rồi chôn ngay tại chỗ, còn đầu của Ngài thì họ theo lệnh đem treo 3 ngày ở cửa Nam thành Nam Định. Sau 3 ngày họ đem ném xuống biển.

Mọi người ngậm ngùi ra về trong những tiếng khóc nức nở, kẻ than trách bọn lý hình hung ác, người ca ngợi lòng can đảm tuyệt vời của vị thánh tử đạo. Một số các bà nữa thì vừa đi, miệng vừa lẩm bẩm đọc kinh cầu nguyện cho Đức Cha.

Sau một thời gian, giáo dân Bùi Chu đã cải táng đưa về đặt tại đền thờ Phú Nhai. Năm 1868, Đức ChaVenceslaô Onate cho phép gửi cánh tay trái của Ngài sang tu viện dòng Đa Minh ở Manila. Các phần khác vẫn lưu giữ tại Bùi Chu. Năm 1888 theo lời yêu cầu của Đúc Giám mục giáo phận là Đức Cha Raimondô Marinea Vigil yêu cầu nên thi hài Ngài lại được rước về quê hương của Ngài, hiện nay đặt tại nhà thờ chính toà Oviedo, nước Tây Ban Nha.

Đức Thánh Cha Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc Chân Phước ngày 29 tháng 4 năm 1951 cùng với Đức Cha Giuse Diaz Sanjurjo An và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo cùng với 116 vị Tử Đạo tại Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988.

Ngày 31 tháng 7

Thánh Phêrô Đoàn Công Quí

Linh mục (1826-1859)

Thánh Phêrô Đoàn Công Quý sinh năm 1826 con thứ sáu, là út của ông bà Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Thường. Nguyên quán của ông bà ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1820 vì sinh kế nên gia đình đã di chuyển vào miền Nam, tới lập nghiệp ở Búng, làng Hưng Thịnh, tổng Bình Thạnh, hạt Thủ Đầu Một, nay là tỉnh Bình Dương.

Vào miền Nam được 6 năm, tức năm 1826 thì ông bà sinh được cậu con trai thứ sáu, cũng là cậu con út, ông bà đặt tên cho cậu là Phêrô Đoàn Công Qúy Cậu Qúy dần dần lớn lên trong sự chăm sóc của ông bà, nhất là của bà mẹ, rất yêu thương và luôn ở sát bên mẹ. Bà Maria Thu nhà bên cạnh thấy bà Thường chiều chuộng cậu con út quá, có lần bà nói:

– “Bà chiều cậu con quá như thế, lớn lên nó hư thì sao?

Bà Thường hãnh diện trả lời:

– “Gớm bà nói. Hư làm sao được. Lớn lên cháu nó đi tu làm linh mục. Nó về làm lễ và giải tội cho bà đấy”.

Bà hàng xóm vui miệng:

– “Thế khi ấy tôi phải gọi cậu ấy là cha à? Sướng nhỉ”.

Quả thật như vậy, điều mơ ước lớn lao nhất của ông bà Antôn Miêng là có mộr người con dâng cho Chúa, để làm linh mục.Hằng ngày ông bà vẫn cầu xin với Chúa như vậy.

Ông bà rất vui và hy vọng nơi cậu con út này. Cậu học hành khá thông minh, ngoan ngoãn và siêng năng đọc kinh tối sáng, thích đi lễ và xin vào ban giúp lễ. Được giúp lễ, cậu có dịp được gần cha Tam, cha xứ nhà thờ họ Búng để xin cha hướng dẫn về đàng đạo đức và ơn gọi làm linh mục.Cha Tam thấy cậu thông minh, lại ngoan nên giới thiệu cậu với cha Gioan Miche Mịch để học kinh sách và tiếng La tinh.

Sau môt thời gian thử thách và học tập tốt, cha Gioan Miche Mich gửi cậu về đại chủng viện thánh Giuse ở Thị Nghè, lúc ấy cha Borelle đang làm giám đốc chủng viện. Tới năm 1848, thầy Qúy được gửi đi du học tại Pénăng, Mã Lai, tại trường đại chủng viện của các cha Hội Thừa Sai Paris đảm trách. Tại đại chủng viện này, thầy Qúy học triết, thần học, văn chương, ngôn ngữ v.v.

Năm 1855 thầy Đoàn Công Qúy trở về nước. giữa thời kỳ vua Tự Đức ra sắc chỉ cấm đạo rất gay gắt.Thầy trở về thăm gia đình tại Búng. Người trong họ đạo thấy thầy về, nhiều người tò mò, nhất là mấy cô trong Ca Đoàn, cứ to nhỏ thì thầm với nhau:

– “Công tử Qúy con ông Miêng đi học lâu ngày nay đã về. Chắc là hết tu rồi. anh chàng đẹp trai đáo để”.

Cô Mai con ông quản Tuấn nhà ở đầu nhà thờ. xem ra bận tâm đến chàng lắm Cô cố ý tò mò hỏi xem thầy còn tu nữa hay thôi rồi. Trong lòng, cô ước mong là thôi rồi, vì thời thế đạo Chúa bị cấm cách, đạo trưởng bị bắt bớ nên cô tin thầy Qúy sợ hãi đã thôi tu. Cô mong như thế, cô.nói với mấy cô bạn trong Ca Đoàn:

-“Anh chàng đẹp trai như thế mà đi tu thì uổng quá chúng mày ạ. Tao cầu xin cho anh ấy đừng tu nữa. Tu thời nay khó lắm”.

Cô bạn khác biết Mai thích thầy Qúy nên hóm hỉnh nhạo lại:

– “Con quỉ này! Mày mê người ta rồi hay sao mà lo cho người ta thế? Ư, mà chàng đẹp trai thật. Đi tu uổng quá!”

Cô Mai:nghe bạn nói, đỏ mặt đáp lại:

– “Thì tao cũng nói thế thôi. Tu hay không tu, đã chắc gì người ta để ý đến tao”.

Nói xong cô nàng lấy tay che mặt, vì mắc cỡ.

Nhưng thật là  “bé cái lầm”. Chỉ sau ít ngày các cô đều thất vọng. Nhất là cô Mai con ông quản Tuấn

Thầy Đoàn Công Qúy sau ít ngày âm thầm về thăm gia đình, thầy lại trở về nhà trường chờ lệnh Đức Cha chỉ định..

Tình thế mỗi ngày một căng thẳng hơn. Vua Tự Đức lại ra sắc chỉ thứ ba, ra lệnh truy nã bắt hết các đạo trưởng, tín hữu phải xuất giáo, các nhà thờ và chủng viện phải phá hủy. Trước tình thế qúa nguy hiểm, Đức Cha Lefèbre Nghĩa trao phó cho thầy Phêrô Đoàn Công Qúy việc dạy giáo lý, tổ chức các sinh hoạt trong các xứ đạo. Thầy đã rất thành công trong những công tác được trao phó. Đức Cha rất hài lòng về thầy nên năm 1858 Đức Cha truyền chức linh mục cho thầy. Lễ truyền chức được cử hành tại nhà thờ Thủ Đầu Một Sau đó Đức Cha bổ nhiệm Ngài đi coi xứ Lái Thiêu, Gia Định rồi Kiến Hoà. Một thời gian sau thì Đức Cha lại đổi Ngài về làm Phó xứ Cái Mơn thuộc tỉnh Vĩnh Long.

Khi cha Phêrô Đoàn Công Qúy về Cái Mơn thì cũng chính là thời điểm tháng 9 năm 1858 quân đội Pháp và Tây Ban Nha kéo nhau đưa tàu vào cửa Hàn, Đà Nẵng.Trước tình thế đó, vua Tự Đức lại càng hoảng hốt, căm thù các giáo sĩ ngoại quốc và đạo Công Giáo. Vì vậy, những cuộc truy nã các vị Thừa Sai cũng như các tin hữu rất là ồn ào náo nhiệt. Khắp các nơi quan quân đều xông xáo đi tìm Thừa Sai Tây Âu.Cha Qúy mới chỉ về Cái Mơn được 3 tháng thì lâm nạn. Vì có người mật báo cho quan đầu tỉnh biết là tại nhà dòng Mến Thánh Giá Cai Mơn có đạo